Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương
(Hồ Trường – Nguyễn Bá Trác)
30 tháng tư nhớ quê nhà,
Từ cuối trời, mây hồng nhẹ trôi trong ánh bình minh như trải màn lụa phơn phớt vàng non lên vạn vật, ngàn tia nắng xuyên qua kẽ lá rơi những đóm sáng lung linh lên mặt những chiếc bàn đóng bằng thanh gỗ sơn màu xám xịt, kê gập ghềnh bên gốc bạch đàn, cây phong, cây sồi sừng sững. Trên ngọn tiếng chim hót véo von gọi đàn. Những con hải âu lạc loài bay bổng buông những tiếng kêu rời rạc vui tai, rồi nhẹ đáp như con diều giấy đứt dây rơi xuống thảm cỏ mượt sương quanh bờ hồ, đứng nghểnh cổ láo liên nhìn quẩn quanh, mặc cho đàn sáo lông thẫm nhởn nhơ, tung tăng, rồi ùa bay vù khi có lũ người xéo qua. Đám se sẻ ríu rít chuyền trên những cành thông vụt bay sà xuống đất, láu táu nhảy chập chùng như những cái lò xo bật bật, líu lo đua nhau tắm nắng mới.
Một buổi sáng bình yên trong công viên thành phố, lòng thanh thản hồi tưởng kỷ niệm thời niên thiếu xa xưa. Xếp áo thư sinh từ giã học đường làm thân chiến sĩ, ròng rã kiếp chinh nhân cho đến khi vận nước đẩy đưa mang danh người ngã ngựa thua cuộc giữa đường.
Trải qua bao thăng trầm nhục vinh thành bại, cuộc đời cuốn hút theo bước phong trần, lạc mộng mị chiêm bao; tuổi thanh xuân thoáng bóng câu qua cửa, ngạo nghễ giữa thênh thang, vỗ trán nâng bầu vói níu túi càn khôn. Góp tài mọn sức hèn xây lâu đài nhân bản giữa tha nhân, những bão táp phong ba chinh chiến đùa dạt nghĩa đời tình người thành ngàn vạn hạt lưu ly, bay tan về muôn hướng, lạc biến đến ngàn phương.
Đời muôn nẻo, thực hư nào ai biết,
Đến rồi đi, lẽ trời đất ai quên.
Kỹ niệm như làn khói mỏng nhẹ lên cao, kết chuỗi những ngày trong quân ngũ, phục vụ trên chiến hạm. Bềnh bồng như cánh bèo dạt sóng, vừa trôi nổi vừa trổ bông giữa mênh mông, có lúc dạt tấp vào bãi bờ chốc lát rồi lại bị con nước cuốn theo dòng lững lờ trôi về một nơi chốn mù khơi khi bóng chiều buông trên khúc giang đầu hay vừng rạng đông chói lọi nơi cuối sông…
Con tàu nhồi sóng lắc lư cô đơn vượt ngàn hải lý qua những hải đạo buồn thăm thẳm dài tận chân mây. Tiếng máy tàu xình xịch hòa lẫn tiếng chân vịt quậy nước khi bổng khi trầm, tiếng gió hú và sóng gào xô vào mạn, ập ngược mũi tàu tạo thành âm thanh hỗn độn ào ào thùm thụp không ngớt. Đời thủy thủ miệt mài cùng năm tháng nặng tình với biển rộng sông dài vực thẳm gh ềnh cao. Những đêm trăng thanh biển lặng, tâm hồn hướng về xa xăm gọi tên dĩ vãng, nhớ nhung thêm từng lưu luyến đã qua rồi.
Những chuyến công tác hải hành tuần dương, hành quân hay yểm trợ hải pháo, thỉnh thoảng ghé bến tiếp tế thực phẩm, nhiên liệu, nhận bưu tín hay sửa chữa bất thường, nghỉ ngơi một vài hôm rồi lại tiếp tục hành trình. Xuống phố, tìm chút hơi đất cho tươi tắn tâm hồn như những thư sinh áo trắng nhưng mang đậm nét dày dạn gió sương. Có những lần bất chợt gặp gỡ bạn xưa trong ngỡ ngàng, mừng vui hàn huyên ngắn ngủi như nụ hoa hé nở bên vệ đường trần gặp giọt mưa rào. Có đôi lúc ngồi hẳng giờ bên tách cà phê, cùng nhau nhắc nhở kỷ niệm xa xôi và ôn lại những dư ảnh nhỏ nhoi quá khứ với bạn cũ trường xưa. Những khuôn mặt thơ ngây như những đóa hoa phơn phớt nắng mai tươi thắm, với tà áo dài tha thướt, những mái tóc, dáng điệu dịu dàng, giọng nói, ánh mắt lúc mừng vui, khi hờn dỗi ngây thơ của từng đứa bạn.
Hè đến, phượng vĩ nở đầy đỏ thắm, cánh hoa tan tác vương vãi ngập sân trường và hè phố trong tiếng ve sầu râm ran vang vọng. Thêm lần nữa, lại nghỉ hè, những đứa học trò rời ghế nhà trường như những chim non xa thành phố trở về tổ ấm quê nhà trong luyến lưu và kỳ vọng. Mang theo mối tình con gói ghém vào những dòng lưu bút ngày xanh viết vội vàng, ngây thơ trên trang giấy trắng như ân tình thư sinh, thầm lặng vương nhớ nhung dài ba tháng xa trường xa bạn.
Ngày tựu trường, chim non từ bốn phương xa tìm về, hân hoan bắt đầu niên khóa mới. Những bàn tay, tâm hồn, khối óc thơ ngây trau dồi kiến thức, thêu dệt khoa học văn chương chữ nghĩa trong sáng, từng bước tô điểm và phát huy tương lai.
Cuối tuần hay ngày lễ nghỉ cùng họp đàn rong chơi. Những gót chân hồng tung tăng nhẹ dẫm lên cỏ hoa đồng nội. Du ngoạn,
cắm trại rừng dương, Mỹ Á, Sông Cầu hay Đại Lãnh, Vũng Rô. Từng lớp, từng đội thi đua, tranh tài thủ công khéo, trang trí đẹp, trò chơi giỏi, thể thao khỏe, nấu ăn ngon và nhất là tất cả cùng ăn chung những bữa cơm tập thể thân mật do chính những bàn tay học trò nấu lấy. Các cô thì bẽn lẽn nhưng lại thích tận dụng hết sở trường nấu nướng thức ăn, các chàng thì lì lợm nhưng lại giỏi ba hoa khéo léo nịnh đầm. Có nhiều anh không gọi cũng dạ, không bảo cũng vâng! Lấy tự nguyện làm phương châm, đem nghĩa tình làm cứu cánh, và dùng tinh thần đồng đội làm phương tiện giúp các tiểu thơ thân ngọc dáng hoa. Đàng sau những gốc dừa hay cội thông quẩn quanh đâu đó, có chàng thư sinh thẫn thờ si, mà nàng tiên vô tình không hay biết có kẻ đang trộm nhìn mình. Cũng không chừng, khuất trong góc nào của khung trời nhỏ, có em thẹn thùng liếc nhìn theo bóng người mình thầm yêu mà mỉm cười e ấp ước mơ. Những nụ tình trong sóng mắt, bắt đầu cho tình yêu lý tưởng đầu đời, được thêu dệt bằng màu sắc theo ý nhạc và thơ trong văn chương nhẹ nhàng và súc tích của Bích Câu Kỳ Ngộ, Hồn Bướm Mơ Tiên, của văn minh lẫn lộn trong Trống Mái, ý thức trong Đôi Bạn, Đoạn Tuyệt... Đêm đến ngồi quanh đống lửa hồng bốc cao sáng rực, cùng múa cho nhau xem, hát cho nhau nghe, reo vui trọn vẹn, chuyện trò ríu rít huyên thuyên. Nhìn trời cao ngàn sao lấp lánh, sông ngân hà vằng vặc mà mơ ước thật nhiều. Ước mơ thơ ngây của tuổi học trò nhút nhát thẹn thùng, mà mãi hoài hằn ghi đậm trong lòng, không thể nào quên.
cắm trại rừng dương, Mỹ Á, Sông Cầu hay Đại Lãnh, Vũng Rô. Từng lớp, từng đội thi đua, tranh tài thủ công khéo, trang trí đẹp, trò chơi giỏi, thể thao khỏe, nấu ăn ngon và nhất là tất cả cùng ăn chung những bữa cơm tập thể thân mật do chính những bàn tay học trò nấu lấy. Các cô thì bẽn lẽn nhưng lại thích tận dụng hết sở trường nấu nướng thức ăn, các chàng thì lì lợm nhưng lại giỏi ba hoa khéo léo nịnh đầm. Có nhiều anh không gọi cũng dạ, không bảo cũng vâng! Lấy tự nguyện làm phương châm, đem nghĩa tình làm cứu cánh, và dùng tinh thần đồng đội làm phương tiện giúp các tiểu thơ thân ngọc dáng hoa. Đàng sau những gốc dừa hay cội thông quẩn quanh đâu đó, có chàng thư sinh thẫn thờ si, mà nàng tiên vô tình không hay biết có kẻ đang trộm nhìn mình. Cũng không chừng, khuất trong góc nào của khung trời nhỏ, có em thẹn thùng liếc nhìn theo bóng người mình thầm yêu mà mỉm cười e ấp ước mơ. Những nụ tình trong sóng mắt, bắt đầu cho tình yêu lý tưởng đầu đời, được thêu dệt bằng màu sắc theo ý nhạc và thơ trong văn chương nhẹ nhàng và súc tích của Bích Câu Kỳ Ngộ, Hồn Bướm Mơ Tiên, của văn minh lẫn lộn trong Trống Mái, ý thức trong Đôi Bạn, Đoạn Tuyệt... Đêm đến ngồi quanh đống lửa hồng bốc cao sáng rực, cùng múa cho nhau xem, hát cho nhau nghe, reo vui trọn vẹn, chuyện trò ríu rít huyên thuyên. Nhìn trời cao ngàn sao lấp lánh, sông ngân hà vằng vặc mà mơ ước thật nhiều. Ước mơ thơ ngây của tuổi học trò nhút nhát thẹn thùng, mà mãi hoài hằn ghi đậm trong lòng, không thể nào quên.
Dù cuộc đời có mệt mỏi tàn tạ theo tháng năm dài, thời tuổi thơ vẫn là bức tranh xinh đẹp trong ký ức. Kỷ niệm về, lững thững dẫm lên tâm hồn người lính trẻ như con sên bò xuyên đám cải dưới trời xuân, khi thì chùn lại, lúc thì cuộn mình như viên sỏi, gợi lên những ảo ảnh nhẹ nhàng tản mạn của bao nhiêu ân tình, bám trôi theo dòng đời như ánh nắng vàng vương lên vành mây phiêu lãng giữa trời mang tiếc thương về dĩ vãng xa xôi.
Người lính chiến xa nhà cô đơn như lữ khách đến rồi đi ngắn ngủi nhưng đã cài thêm hoa lá lên nhánh đời, hằn điệu thăng trầm có khi ray rứt, cũng có lúc êm ái như gió thoảng như mây bay bàng bạc hạo nhiên. Thương mình bèo dạt mây trôi, thương người tình nhỏ tại quê nhà âm thầm dõi trông theo chinh nhân ngoài hải biên xa vời. Vấn vương hoài niệm tiềm ẩn kiếp vô thường. Thời gian bất tận và không gian vô cùng, mà cuộc đời như con tàu từng chặp phải dừng lại những sân ga, như chiến thuyền rồi cũng phải từng chập buông neo nơi bến đỗ, vô tình là chứng nhân cho những giọt nước mắt mừng vui tao ngộ hay u buồn biệt ly giữa sự náo nhiệt của trăm vạn tha nhân hững hờ “nước xuôi giòng cổ độ chẳng nhìn theo” (Bùi Giáng.)
Cuộc vui nào rồi cũng tàn, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nào rồi cũng chia tay, mỗi người đi mỗi ngả, như chim bay muôn hướng, cá trở về sông, bỏ lại sau lưng nỗi ngỡ ngàng nuối tiếc. Mang canh cánh những lưu luyến ngậm ngùi của chuyện đời chưa nói hết, cuộc tình vừa đơm hoa chưa kết trái. Mong sẽ có những lần hội ngộ, cho tình đời buông trôi thù hận, cưu mang bác ái nhân nghĩa, cho tình người thôi đừng chua xót đắng cay.
Chuốc men đối bóng tìm quên mấy mươi năm quốc phá gia vong, hỏi trời cao có thấu, hỏi gió gào có nghe người lính trẻ hạt cát giữa sa mạc chinh chiến nổi da xáo thịt, gang tấc tử sinh, đời có mấy kiếp để hy sinh
Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường. *
Hỡi người tri kỷ, trong cuộc bể dâu, “đời lính chiến mấy người đi, trở lại,” lỡ như mình không về thì nơi quê nhà người tình nhỏ mãi chờ mong! Hãy đến với nhau trong tình “tứ hải giai huynh đệ,” để tiếp nối nghĩa ân xưa.
Ta, một chinh nhân, bốn biển là nhà, kiếp lưu lạc cô đơn, nâng ly trông vời bốn hướng, mời người bằng tình nghĩa đệ huynh.
Ta biết rót về đâu*
Ai biết còn ai tủi sầu nhân thế, ai biết mấy ai bận lòng chưa trả cạn nợ núi sông
Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan*
Có ai ngờ, một ngày đến không mời, cả bầu trời Việt Nam sụp đổ, bão lửa đỏ hừng hực từ bắc phương tràn qua Hiền lương Bến hải đốt cháy Nam phương, thiêu rụi chính thể cộng hòa khai phóng, nhân bản, dân chủ và tự do, vùi chôn tất cả mọi ước vọng, xóa tan mọi chiến tích. Giấc mơ hòa bình tan vỡ, mà hàng vạn quân dân cán chính đã hy sinh trọn tuổi trẻ không cam tâm làm người thua cuộc. Trong đám bạn bè thân ái một thời, không biết thằng nào còn đứa nào mất, bao nhiêu đứa lưu vong, bao nhiêu thằng cúi mặt nuốt tủi nhục cam sống hẩm hiu cơ hàn nơi cố lý. Ôi thương thảm thay
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút cát chạy đá giương
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng.*
Quá khứ đã lùi xa vào dĩ vãng mà tương lai vẫn con biền biệt, như quê hương mịt mù bên kia bờ đại dương thăm thẳm mênh mông.
Trời Nam nghìn dặm thẳm
Non nước một màu sương *
Thời gian không bao giờ ngừng lại dù một phút giây, hành tinh này vẫn trong tuần hoàn của vũ trụ; mùa xuân sẽ trở lại cho vạn vật hồi sinh rực rỡ dưới ánh mặt trời, đùa mùa đông tan loãng băng giá xa dần cho ngàn cây thay áo mới và mùa hè đuổi kịp đễ mùa thu trở về cho hợp lẽ đất trời!
Trời bên này cũng nắng ấm, nhiều khi lắm mây và cũng có những trưa rực nắng hanh vàng đổ rợp lên đầu những nhộn nhịp xe cộ của phố phường “… nhưng không bằng nắng ấm quê hương… (Nguyệt Ánh).” Vờn vợn lung linh trên đồng lúa mênh mông đến chân dãy Trường Sơn mờ xa, kéo đường chân trời gần lại, màu thiên nhiên thanh thanh hài hòa mà bố cục là đất với trời quê hương. Trời Phú yên thênh thang và mây Phú yên bảng lảng. Người Phú yên với tấm lòng “nẫu” chất phác chân tình, hiền hòa cởi mở.
Năm nay, Phú yên dư nắng, vào xuân, trời oi bức khác thường. Mùa đông qua, mưa vắng nhà, suối nguồn khô cạn, bão lụt quên về. Trời không hành cơn lụt như mọi năm, nhưng những tai ương nhân tạo vẫn đang đổ xuống ngày một khốn nạn hơn. Hỡi bạn bè của tôi, ưu tư và khắc khoải lê thê, chúng ta làm được gì cho thế hệ bây giờ và mai sau. Có cùng ước vọng tương lai, con cháu biết nghĩ đến và bảo vệ quê hương nguồn cội. Phải hiểu “Quan nhất thời, dân vạn đại” là gì.
Mùa nắng của đất trời vùng bắc Mỹ, tuy không cùng không gian với bên nhà, nhưng cùng màu thời gian. Ở nơi đây, thành phố hay ngoại ô xa, không lũy tre làng, không tiếng quốc kêu mà lòng vẫn chạnh nhớ nước non. Không ruộng đồng bông lúa trổ, không quang gánh kĩu kịt đường quê, không xe ngựa xe thồ, nhưng vẫn thường nghĩ đến cố hương. Không thấy phượng hồng đỏ thắm, không tiếng ve sầu réo rắt, không có những bóng dáng đám con gái áo trắng học trò líu lo nhí nhảnh cỡi xe đạp chở theo những cành hoa phượng rong chơi dưới nắng hè rực rỡ như bên nhà. Nhưng là những gì lưu luyến ấp ủ trong tâm tư; là những xót xa miên viễn, những kỷ niệm xa xưa biền biệt, không hiện hữu trong tầm mắt nhưng chẳng nhạt nhòa trong tiềm thức.
Thử lắng nghe tiếng hát Gia Huy trong nhạc phẩm Phượng Hồng của Vũ Chung
“... những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng,
Em chở mùa hè của tôi đi đâu? . . . . . . .”
Tiếng hát và lời ca làm mềm lòng bao người nhớ lại thời niên thiếu khi vừa biết yêu và được yêu.
Không một nơi nào có thể là hình ảnh trang trọng và gợi nhớ như là hình ảnh cố hương khi đã rời xa. Nơi này cũng biển, cũng núi đồi nhưng không giống biển quê mình có sóng đùa rì rào như tiếng thì thầm muôn thuở của hồn thiêng sông núi. Những dãy phi lao xanh đứng dọc theo bãi biển cát trắng chạy dài về xa tít, ngọn cao vút trong gió vi vu như ru lời tình tự quê hương. Những rừng dừa lá cong như cánh phượng ngã nghiêng đong đưa bóng mát. Những đàn cò trắng bỏ đồng ruộng bay về núi rừng khi nắng chiều gần tắt.
Trường Sơn trùng điệp, Đá Bia cao ngất đỉnh vói trời, Đèo Cả quanh co vời vợi, Vũng Rô trong xanh thẳm và rạt rào. Bên bờ Đà Rằng nối hạ lưu sông Ba đón dòng nước tràn qua đập Đồng Cam luồn ngang 21 nhịp cầu đổ xuôi ra biển, Tháp Nhạn thiên thu đứng sầu hoài cổ, Chóp Chài sừng sững nhìn về nam phương, có những ngày mùa đông, mây phủ từ lưng chừng lên đỉnh như đội mũ.
Chóp chài đội mũ, mây phủ Đá bia
Đá bia mây phủ chị kia mất chồng,
Mất chồng như nẫu mất trâu,
Chạy lên chạy xuống cái đầu chơm bơm. (Ca dao Phú yên)
Ai lên bắc, vượt dốc đèo Quán cau ngoằn ngoèo qua đầm Ô loan, lên Chí thạnh, Gành đỏ Sông cầu đến tận Cù mông. Nhìn ngoài khơi, Hòn Chùa án ngữ cửa ngõ ra biển Đông... mỗi nơi một địa danh một hình thể, một sắc thái mà bất cứ nơi nào Đồng xuân, Sông cầu, Tuy an hoặc Tuy hòa cũng có thể gọi là biểu tượng của Phú yên để kẻ ly hương ấp ủ mãi trong lòng hình ảnh quê nhà thật êm đềm.
Nhớ xưa,
Từ khi được sinh ra góp mặt vào đời và lớn lên nơi làng quê hẻo lánh với lũy tre xanh con mương bờ mẫu ruộng đồng, cùng lũ trẻ chung xóm tung tăng, vui đùa dưới bóng đa cổ thụ sân đình, chái lý. Dưới mái tranh vách đất trường làng, bập bẹ ê a học tiếng vỡ lòng mẫu giáo, thầy Phạm Hoàng dạy những bài học khai tâm. Khắc lòng tạc dạ công cha nghĩa mẹ ơn thầy. Đèn sách sử kinh “Tam Cương”(1) “Ngũ Thường,”(2) “Tam Cương Giả”(3) Thấm đậm tình quê nhân bản chất phác, gắn bó với nhân nghĩa xóm làng theo năm tháng lớn khôn.
Thuở đầu đời không được như cánh chim non bay liệng trên đồng cỏ hoa bát ngát, mà theo chân mẹ né tránh bom đạn của thế chiến II. Rồi tiếp theo chập chờn khiếp sợ mã tấu dao găm Việt Minh tiêu thổ kháng chiến tan nát liên khu 5. Tản cư nheo nhóc, rồi hồi cư lam lũ, đói rách, hư hao, mất mát, chia lìa cho đến tháng bảy năm tư.
Vào đời sĩ tử, “… buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học …” (Thanh Tịnh) bước chân ngượng nghịu học trò, học đòi sĩ tử, học bạn học thầy, văn chương chữ nghĩa xôn xao. Nhiều khi, trong năm học phải bôn ba di dời theo ngôi trường học, có khi tại lẫm làng, có lúc tại đình chùa, có khi chuồng bò chuồng trâu. Có lúc phải “chạy loạn,” đến những làng xã xa xôi, có nhiều năm xách đèn dầu đi học ban đêm để tránh phi cơ tấn công. Có những lớp phải trải hai ba năm mới hết chương trình, vì chiến cuộc bất nhân tàn phá hủy hoại.
Đến năm lớp nhất, trường dời đến tận Xóm Ao, rất xa nhà. Phải rời nhà từ sáng sớm vừa đi vừa chạy để đến trường kịp giờ. Học trò từ nhiều thôn xa dồn về, mỗi đứa bất luận nam hay nữ, phải tự đào cho mình một hầm tròn sâu dọc bờ rào tre để nấp máy bay oanh tạc. Bên cạnh, Lê Thị Mỹ Hương, cùng lớp đến từ Núi Sầm, suốt ngày chỉ đào được vài tấc đất, hôm sau, giúp Hương đào một buổi thì xong. Mỹ Hương, cô gái quê mới lớn, đôi mắt thật đẹp với nụ cười hồn nhiên và giọng nói ngọt ngào khuyến khích nhau chuyên cần vượt khó để thành đạt. Cuối năm tiểu học, hai đứa hứa hẹn nhau cùng vào trung học đệ nhất niên Lương Văn Chánh (tương đương với đệ thất.) (Bấy giờ, trường trung học Lương văn Chánh chỉ có lớp trung học đệ nhất niên, đệ nhị niên và đệ tam niên, sau đổi thành lớp 5, lớp 6 và lớp 7.)
Tháng giêng 1954, Chiến dịch Atlante bùng nổ, quân đội Pháp đổ bộ chiếm tỉnh, lần nữa lại bỏ làng tản cư. Đường vào trung học gián đoạn. Tháng bảy 1954, sau hiệp định đình chiến Genève, quốc gia Việt Nam bị Việt Minh cấu kết chia đôi, sông Bến hải (vĩ tuyến 17) là ranh giới phân chia hai miền nam bắc. Việt Minh cuốn gói bị gậy tập kết ra Bắc. Dân thành phố và thôn làng lũ lượt hồi cư lập nghiệp.
Đèn sách trở lại học đường trong một môi trường xã hội mới Quốc Gia Việt Nam. Từ đã hoàn tất tiểu học, trở xuống lớp ba với thầy Phạm Hỷ tại đình Qui hậu. Năm sau xin vào lớp nhì rồi lớp nhất trường nam tiểu học thành phố, nơi đây gặp nhiều bạn mới, vửa tỉnh vừa quê cùng đám Bắc kỳ nhỏ Bùi chu, Phát diệm, Hải phòng, Hà nội …. di cư, lẫn lộn ngữ âm nờ lờ chờ trờ líu lo.
Đời học trò mất đi ba năm dẫm lại đường xưa tiếp theo sau những ngày tháng dài “thất học, hai buổi cờ lau tập trận,” tuổi qua mau mà chưa làm nên tích sự.
Mỗi sáng sớm rời làng quê đi bộ băng qua một cánh đồng để lên thành phố, bất kể nắng cháy hay mưa bão, tay ôm tập vở, tay xách túi cơm trưa mẹ gói từ tối hôm trước trong lớp mo cau quê mùa, chỉ cơm trắng với muối ớt, muối lá é hoặc ngon hơn một con cá rô mặn nướng, hay cái trứng luộc, đến trưa, tan trường, học trò thành phố về nhà, chỉ còn năm ba đứa nhà quê chụm nhau tại lớp, vừa ăn vừa học bài vừa chuyên trò vui vẻ.
Bước vào đệ thất trung học Nguyễn Huệ với tờ “chứng chỉ thế vì khai sinh,” giảm đi ba tuổi đời. Nhỏ bạn cũng đổi nhãn sách vở lếch thếch lẽo đẽo chạy theo.
Nắn nót tình đồng môn ngây thơ thân ái và tình yêu đầu đời len lén xâm chiếm hồn trẻ, thầm lặng biến thiên thuận theo thời gian, quấn quít chung không gian như đôi chim, nhè nhẹ vẽ nắn nót trong tim những đường tơ dệt tình thương vụng dại học trò. Cho đến một ngày xếp áo thư sinh giã từ bút nghiên dấn thân vào sương gió.
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây.*
Mang theo hình ảnh yêu dấu của người thân và quê hương làm hành trang vào đời. Giong ruổi kiếp chinh nhân như bão táp thác tràn.
Cho đến một ngày
Bẻ gươm bất chiến, ngày tàn cuộc,
Mệnh nước âu đành khốc biệt ly.
to anphong
Ghi chú
(*) Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác
(1) Quân-thần, phụ-tử, phu-phụ
(2) Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín
(3) quân-sư-phụ
No comments:
Post a Comment