Pages

Thursday, September 19, 2013

HOÀI NIỆM

toanphong



Ánh nắng cuối ngày chiếu hững hờ lên bãi vắng, viền tím đường chân trời mờ mờ mù khơi giao thoa giữa trời và nước càng lúc thêm hài hòa chạng vạng cho đến khi không còn phân rõ được nữa. Xa xa phía sau lưng,bóng hoàng hôn mong manh kéo lần tới tận đỉnh dãy núi chập chùng màu phấn xanh lam, lặng lẽ đóng khung góc không gian uể oải lịm dần vào bóng chiều từ từ xẫm lại. Vài cánh chim bay về phía xa xăm rồi lẫn khuất vào giải mây lang thang còn vương vấn chút ráng vàng từ triền cao rơi rớt về cuối chân mây. Những con sóng nối tiếp như những con lươn biển khổng lồ dài thườn thượt lăn tràn lên bãi cát thoai thoải. Gió từ biển khơi mang làn hơi dịu mát làm êm ả tâm hồn những người khách cuối cùng đang ngồi đếm thời gian.
Nhớ thuở học trò, cũng trên bãi biển vào những chiều cuối tuần hoặc ngày nghỉ học, thường cùng bạn bè hay cũng có lúc một mình ngồi trên đụn cát cao nhìn ra biển Đông
Bãi biển Tuy Hoà

bao la mà mơ ước tương lai. Những khi biển im, gió nồm thổi nhẹ, thỉnh thoảng nghe mẹ nói“biển bữa nay trúng (được mùa cá) mình sẽ mua được nhiều cá tươi ngon”... 

Những hàng thuỳ dương dọc theo bờ biển Tuy Hoà
Tôi không được sinh ra tại thành phố này, nhưng lớn lên và học hành ở nơi đây, Tuy hòa, một thành phố nhỏ bên bờ Biển Đông nhìn ra Thái bình dương bao la, quanh năm sóng
vỗ rì rào, hòa cùng tiếng gió reo vi vu qua những rặng thùy dương xanh muôn thuở chạy dài dọc theo bãi như giải phân cách đại lục và biển khơi. Một thành phố yên bình và hiền hoà như con người bản xứ;
Tháp Nhạn dưới trăng
chân tình, nhân ái và thật thà, không bon chen ganh tị, là chứng nhân bao đời của thế sự thăng  trầm, như di tượng sừng sững ngàn năm bất di dịch in bóng xuống dòng Đà giang, hững hờ với gió rít mưa rào hay tiếng xào xạc của lũ dơi bay đi về trong những đêm trăng huyền hoặc, qua hằng bao thế kỷ như ngậm ngùi cho một đế chế giống dân Hời đã vang bóng một thời rồi biệt tăm…
“... Hồn kiếp trước riêng đây sầu xứ mãi,
  Khóc luân hồi chưa ráo lệ tang thương”  (Vũ Hoàng Chương) 
Cầu Đà Rằng

Những con hải âu bay đi rồi lại nháo nhác bay về mé bãi trong bóng xẩm tối vô tình của trời đất, lòng người tha hương muốn gởi theo vầng mây lơ lửng, làn gió lao xao về xa xăm, nỗi tiếc nuối một thời qua, một thời của tuồi học trò hồn nhiên, một thời của tuổi trẻ ngang dọc sông biển bến bờ, yêu thương và hạnh phúc mà bây giờ chỉ còn lại những lưu luyến nhớ thương, cái không còn quẩn quanh tội nghiệp như một kiếp nô lệ bị mất hết tất cả những gì gom góp được trong thời đã qua ấy. Từ tiềm thức lặng yên, những kỷ niệm xưa nối tiếp nổi lên như dàn phao của những phiến lưới dài, lập lờ theo những luồng sóng nhấp nhô, lúc hiện lúc ẩn, như diễu cợt với những xót xa kết chuỗi sóng gió thăng trầm trong cuộc sống, những nhục vinh thành bại trong cuộc đời, với người, với đời và với chính mình, với đất trời quê hương thân yêu nơi chôn nhau cắt rún, nơi mà tiền nhân đã đổ biết bao mồ hôi, nước mắt và xương máu để gầy dựng; cũng nơi đó đã có biết bao người tự bỏ quên phần đời tuổi trẻ dấn thânvào sương gió, miệt mài chiến chinh theo mệnh nước tiếp nối sự nghiệp của tiền nhân. Đến ngày trở về chỉ còn nhìn thấy những tan hoang với cõi lòng rã rời rách nát.

Những ước mơ của ngày xa xưa dưới bóng học đường đã sớm tàn và rụng rơi như lá thu, định mệnh khắt khe đưa đẩy làm dở dang cuộc chơi của tuổi mới lớn, thời qua rồi chẳng bao giờ trở lại. Trực diện với “chí tại bốn phương” bỏ lại sau lưng thành quả của những tháng năm dài đèn sách khởi từ đồng ấu; bước vào ngưỡng cửa ngôi “Trường Nam Tiểu Học Tuy Hoà” đầu tiên (hậu thân của lớp “yếu lược” cho đàn trẻ di cư của thầy Huân,) mái tranh vách đất, nghèo nhưng khang trang, nằm trên khoảng đất rộng thiếu vắng những tàng cây xanh ngoài một hàng tre dài bên cạnh khu di cư ở phường tư, hai mặt trước sau là rừng đầy gai bàn chải, bụi rậm dú dẻ chim chim với bãi tha ma mênh mông. Chính danh là “trường nam” nhưng có nữ học chung, (vì lúc bấy giờ mới xây dựng được một “Trường Nữ Tiểu Học Tuy Hoà” duy nhất, do cô Trần Thị Khương làm hiệu trưởng, chỉ có lớp ba là cao nhất nên chưa có lớp cho học trò nữ của trường nam sang học.) Trường nam gồm 2 dãy, 6 gian đối diện nhau; bắt đầu với 2 lớp ba, 2 lớp nhì và 2 lớp nhất, dưới bóng của Thầy Hiệu Trưởng Lê Cao Lợi, sau này mới thêm được lớp tư và lớp năm. 
Cuối năm tiểu học, chúng tôi dành phần thưởng danh dự lớp Nhất B và Dư thế Long, lớp Nhất A ẵm phần thưởng danh dự toàn trường. Chúng tôi giã từ “Trường Nam Tiểu Học Tuy Hoà” bước lên trung học, và các nàng Hằng, Hà, Hạnh, Nghiêm, Phượng, Thơm, Đoan Trang, Mùi, Tú, Nết… cũng bỏ trường nam chạy theo lũ con trai chúng tôi dắt dìu nhau lên đệ thất “Trường Trung Học Nguyễn Huệ” bắt đầu từ niên khoá 1956-1957, núp
Dệ Ngũ 60 tại chân kỳ đài
dưới bóng cổ thụ Thầy Vũ Trí Phú. Tuy ở đậu trong khuôn viên của “Trường Nữ Tiểu Học Tuy Hoà” nhưng khá hơn, tường gạch mái tôle, nền cao cửa rộng, toàn trường được xây theo hình chữ U, tiểu học choán dãy giữa ngạo nghễ nhìn thẳng ra đường, trung học là hai dãy “lặng lẽ nhìn nhau” đứng hai bên, trường toạ lạc bên lề đường Số 6 (đường Nguyễn Huệ ngày nay)  lối vào từ cổng trường là con đường được đắp cao qua kỳ đài chạy thẳng đến chính diện Trường Nữ, và sân trường thì trũng sâu ngang mặt ruộng phía bên kia đường, mùa mưa học trò chúng tôi phải lội bì bõm rồi leo lên tam cấp để vào lớp. Tội nghiệp cho những sĩ tử đến trường theo đường tắt, qua ngả trường Nam, khu di cư theo lối mòn quanh co xuyên gò mả, tới cổng sau thì vén vạt xắn quần lội nước ngang qua “văn phòng” của phu trường để vào lớp. Những hình ảnh khó quên hay chẳng bao giờ quên của thuở học làm người đã hằn sâu trong tâm khảm, mỗi khi nghĩ hay nhắc tới là lòng thấy nao nao xao xuyến.

Tình nghĩa thiết tha với thầy, với bạn lớn dần theo năm tháng, cùng sinh hoạt văn chương chữ nghĩa học đường, cùng tranh đua từng con số, bài làm, nắn nót từng dấu phảy, dấu chấm, bon chen từng dấu cộng dấu trừ …sát vai cùng học tập, cùng chia sẻ, cùng khuyến khích, cùng tiến cùng vui. Những ngày nghỉ học cùng bạn bè rong chơi quanh phố, có khi xuống Phú Câu, rừng dương, Mỹ Á; lên núi Nhạn ngắm cảnh trời mây ruộng đồng sông
Vũng Rô dưới chân Đèo Cả
biển, tham dự những cuộc du ngoạn bằng xe đạp qua cầu Đà Rằng đi Phú Lâm hay Bàn Thạch, Đèo Cả, hoặc đi xe lửa vào Vũng Rô, Đại Lãnh; có khi đáp xe đò ra tận Sông Cầu, xuống đầm Ô Loan; có lúc lên tận đập Đồng Cam. Cùng họp đoàn đùa vui, cùng hát cho nhau nghe, trình diễn kịch múa cho nhau xem quanh đống lửa trại sáng rực góc trời. Có những dịp thi
Bãi biển Đại Lảnh trước cửa ngõ vào Phú Yên
thố tài năng tại lớp, hát những bản tình ca ngọt ngào và được đón nhận những tràng pháo tay, những nụ cười, những ánh mắt khich lệ. Từ đệ thất, được học Anh văn sinh ngữ chính mỗi tuần 6 giờ, cho đến năm đệ lục thì ngoài sinh ngữ chính phải bị bắt buộc học thêm sinh ngữ phụ Pháp văn mỗi tuần 3 giờ. Và lớp đệ thất ban Pháp văn sinh ngữ chính phải thêm sinh ngữ phụ Anh văn. Vì phát âm Anh văn hơi khó nên giáo sư môn Anh văn thường dạy cho hát những bài hát vỡ lòng trong sách, để học trò tập làm quen với giọng Anh, tôi nhớ mãi một bài hát ngắn, với tôi, thật đẹp, mà sau này, dù ở đâu hay làm gì, những lúc chiến hạm đang hải hành tuần dương, vào những đêm trăng sáng gió nhẹ sóng im, trên đài chỉ huy, thầm hát để nhớ và thương một mình
“the moon is high
the sky is blue
at here am I
but where are you ….”
Đập Đồng Cam
Có một lần tham dự trại hè trên đồi Bạch Mã (Huế), trình bày bản nhạc Ngày Chia Tay của Lam Phương vừa mới phát hành tháng trước, trong đêm lửa trại chia tay trước hàng trăm học sinh từ các trường trung học của các tỉnh Trung phần và Cao nguyên Trung phần, được cổ vũ nồng nhiệt, tiếng vỗ tay vang dội núi rừng Bạch Mã, và được ưu ái khen tặng đặc biệt của H’Lut, một nữ sinh trường trung học Banmethuot, cô nàng gốc Radé, xinh xắn rất dễ thương, giọng nói ngọt ngào, tuy tiếng Kinh lơ lớ nhưng “Elle parle français comme l’oiseau chante! vì nàng là học trò trường Tây; chúng tôi thường liên lạc thăm hỏi và chia sẻ với nhau cho đến “mùa hè đỏ lửa” thì chúng tôi mất nhau…
Đầm Ô Loan

Tình yêu thương ở tuổi học trò là tình yêu thương thật trong sáng và tinh khiết như trang giấy trắng tinh nguyên. Len lén vào đường tình một cách lặng lẽ như một học trò khi bị thầy gọi lên trả bài không dám ngó mặt thầy hay nhìn xuống bạn bè dù bài có thuộc làu, mà sau này cứ mỗi lần nghĩ đến là tự trách mình sao tự ti quá đỗi rồi thầm an ủi “tại duyên số nên ta không được về tắm ao ta.” Đến khi vào quân đội, mang theo hình bóng của tình đầu dấu kín (suốt đời) làm hành trang. Dù “chung bóng đôi đầu” hay đơn bóng là một thứ tình yêu thời niên thiếu như nụ hoa hàm tiếu nơi vườn địa đàng tuổi thơ, trong tim vẫn luôn luôn có một khoảng trống dành cho tình yêu đó mà không ai được đụng đến, ít nhất cho đến bây giờ, vẫn tha thiết và trân trọng.

Thuở bé dại quẩn quanh bên chân mẹ, nhìn đời bằng ánh mắt ngây thơ ngờ nghệch cho đến khi hiểu được phần nào lý lẽ của đất trời mới đem cái dũng bình sinh nhập thế. Từ tâm thức, khắc sâu ý tưởng “da ngựa bọc thây” tâm nguyện “rạch mũi can thương...Nợ tang bồng vay trả trả vay ...(Nguyễn Công Trứ) như định mệnh. Vào một chiều thu buồn, xếp lại bút nghiên ra đi theo tiếng gọi của núi sông, đem chí trai vào đời, chấp nhận gió sương gian khổ vì quê hương, giã từ đời học trò, xa trường, nơi hằng thu nhập tinh hoa và ấp ủ những mộng ước tương lai, rời mái ấm gia đình, bè bạn và làng xóm láng giềng thân yêu, vào đời chinh nhân như chim non bay vào trời giông bão. Từ đó, những ủy mị và nhút nhát nhường chỗ cho sự khôn lớn theo thời gian dày dạn với súng đạn, thích nghi với áo trận giày đinh. Ngày dài nắng hạ hay đêm đông gió rét mưa dầm, lầm lũi mà hiên ngang giữa đất rộng trời cao, xông pha vào hiểm nguy để xây dựng an lành, vượt nguy nan để vun trồng hạnh phúc cho tha nhân, viết nên những khúc hát cho đời, tô thắm tình tự quê hương. Tuy chưa thấy dạng hòa bình khi quê hương ngập tràn khói lửa chiến tranh nhưng vẫn mơ ước hòa bình đến mau, vẫn dọc ngang khắp bốn vùng chiến thuật, vượt ngàn hải lý biển rộng sông dài năm vùng duyên hải mà quên rằng tuổi trẻ đang mỏi mòn. Dù có mơ ước một mai khi đất nước thanh bình để được trở lại quê nhà, mà sao còn mãi hăng say ngoài sương gió ? Ai ngoảnh mặt, ai chê cười ?
“... Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
     Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi...” (Vương Hàn)

Rồi, một ngày đã đến…
Rũ bỏ chiến y, buông rơi vũ khí…
đại bác im, hỏa châu tắt
chinh chiến tàn...
những người trai anh hùng con yêu của tổ quốc đã một thời hiên ngang
bị lùa vào những nhà tù nhỏ trong nhà tù lớn trên chính quê hương mình
một lũ người rời núi cao rừng thẳm,
chui ra khỏi chốn bưng biền, hang cùng, ngách tối,
răng vẩu mang mã tấu về thành,
quẳng ruột nghé khăn rằn nón cối dép râu,
cướp cạn cướp sâu,
giựt ngang giựt dọc
lên “kế hoạch” “bổ túc văn hoá”
non vài tháng học vị “siêu” chất ngất
học hàm “hoành tráng” tận mây xanh
ăn trên đầu ngồi trên cổ dân đen
bắt chước xây nhà “cao cấp”
học đòi tậu sắm “xe con”
tập tành áo vét giày da cà vạt kiếng mát đồng hồ bút bi dắt túi
tranh chức chủ tịch, bí thư.
ngồi vào ghế giữ thế “co giò tránh lụt”
phố phường thay tên đổi chủ

Bốn mươi năm sau,
vẫn lũ khỉ láo lơ trơ tráo
đứt tuột mất dây liêm sỉ trong đầu
cũng chẳng có “văn hóa” từ quan
giữ vững “lập trường” tham quan hối lộ
chẳng màng thành ngữ dân gian :
“dốt như chuyên tu
ngu như tại chức,”
hèn với giặc thù truyền kiếp
lại ác với chính dân mình.
Những đàn áp đọa đày đòn roi cay nghiệt
ngày càng dã man bủa xuống da thịt đồng bào bỡi lũ người cùng màu da, tiếng nói.

Bạn bè đứa còn đứa mất,
đứa lìa bỏ quê hương trôi dạt đến những phương trời xa biền biệt trên khắp mặt địa cầu,
sống đời tự do.
Đứa ở lại quê hương
mất đất mất nhà,
tay trắng lang thang
bị đầy ải vào vùng “kinh tế mới,”
trước mặt là núi cao,
sau lưng là rừng thẳm
che kín nẻo tương lai,
nhổ rễ, lăn đá, khoét giếng để sống còn.
Có thằng mò xuống tận đồng quê hẻo lánh,
quẩn quanh bên lũy tre làng;
lam lũ cuốc bẫm cày sâu,
âm thầm sống đời đạm bạc,
hẩm hiu với hột bắp lát khoai,
miếng cà con mắm,
vốc gạo độn sắn ngô tạm no lòng.
Có thằng dắt díu vợ con nheo nhóc lê lên thành phố,
mặt mày lem luốc,áo quần vá víu tả tơi,
tần tảo ngược xuôi cuối phường đầuchợ,
vợ da bọc xương, chân đất gò lưng đẩy xe ba gác,
chồng hom hem xèn xẹt đạp xích lô,
chiu chắt từng đồng nuôi con qua bữa.
Có thằng chạy xe ôm kiếm sống từng ngày,
vợ ở đợ kiếm cơm,
con bới rác tìm đồ thừa đỡ đói.
Có đứa mở tiệm buôn đồng ra đồng vào rủng rỉnh;
có thằng bán vé số, đứa vá xe đạp lề đường thu từng tờ bạc hẩm hiu.
Thằng ở nhà lầu, đứa ngủ chòi tranh,
thằng chỉ có tấm phên che mưa đỡ nắng,
đêm về gió lạnh co ro, bụng lúc no lúc đói,
ngày nhìn nắng rọi xuyên mái tranh cùn chiếu lên nền đất lung linh như những cánh hoa tan tác rời cành bạc phận tả tơi.
Có thằng dựng căn chòi xiêu vẹo bên đường cho thuê sách cũ truyện nhi đồng để kiếm tiền mua từng lon gạo.
Có đứa làm thợ chụp hình,
có thằng làm nghề cạo gió giác hơi,
cũng có thằng theo nghề thợ hàn thợ thiết, công việc lúc đến lúc đi.
Có đứa dong buồm, lướt xuồng lưới cá, giăng câu, mò cua bắt ốc
Có đứa làm thầy và cũng có thằng làm quan, kẻ hầu người hạ.
Có những thằng được làm cu li, đem mồ hôi đổi từng hạt gạo
cũng có những thằng chen chân được vào làm thầy ký nhà thương, công nhân bệnh viện,
phu lục lộ, phu dẫn thủy nhập điền kiếm tiền ăn bữa cháo bữa rau.
“Giải phóng” rồi, mà đời tràn ngập thương đau !

Tai nghe mắt thấy lòng nghĩ sao cho thấu
kiếp xuống chó lên voi
trớ trêu nghiệt ngã
gậm nhấm tan nát tâm tư.

Hướng về xa xăm bên kia bờ Thái Bình hun hút, lòng mãi còn vương vấn cái quá khứ năm xửa năm xưa, một thời quá khứ không dễ phôi pha và bay bổng như sợi khói lên cao; thời gian không ngưng đọng lúc mà tình đời vừa được sơn phết lại cho những con người từ lâu bị ganh ghét hất hủi; từng đứa, hiện thân cho mỗi địa vị ở hoàn cảnh mà xã hội đã không ưu đãi bất cứ ai trong họ, cho dù họ có phải chịu uốn mình và tự hủy cái thể diện và liêm sỉ cá nhân để lách luồn cho qua ải, tránh bớt được nỗi nhục nhằn đang giăng mắc và dòm ngó ở mọi nơi. Làm sao hủy được cái liêm sỉ, vốn liếng có từ nhân chi sơ và lớn dần theo thời gian bằng sự gọt giũa, trui luyện để trở thành tinh toàn, không phải chỉ một sớm một chiều mà dài lâu và phải khắc phục để có được. Tự hỏi, tại sao vậy! Tại sao những người trong chúng ta phải bị chia lìa và mất mát. Phải chăng bởi sự vị kỷ hay ích kỷ, hoặc mặc cảm đã xô đẩy người xa người, người hất hủi hành hạ người, người bị tước đoạt cái vinh dự làm người trong xã hội và phải trở thành kẻ nô lệ của xã hội, để rồi bị kỳ thị, bị chà đạp và bóc lột đến tận cùng.

Từ lâu, gần như không còn thói quen một mình ngồi phì phà điếu thuốc, hít một hơi sâu vào phổi, làn hơi ấm và thơm tho đậm đà của quê hương đã có, không khét lẹt, không nhân nhẩn đắng mà thoang thoảng mùi hương của loài hoa dại bên sườn đồi vào lúc bình minh; một hương vị thuần khiết mà ta đã đánh mất từ lúc nước non biến động. Lòng bình thản, để cho nỗi suy tư về mình, về đời, về tha nhân và cho sự thiết tha với quá khứ vươn lớn trong lòng. Tuy không thấy được những gì đang lóng lánh ở cuối chân trời nhưng có thể hiểu và cảm thông được những nỗi niềm khơi lên từ phương ấy. Nó chẳng phải vừa mới thuở nào đây, mà đã mấy mươi năm rồi đó, bao nhiêu thập kỷ đã đi qua là bấy nhiêu nỗi cay đắng đầy vơi tan tác đến rồi đi trên một kiếp người, để lại trong lòng canh cánh những niềm nhớ, những tiếc nuối khôn nguôi và cũng có lắm người quên mau như dấu ơ hờ.

Những lúc hồi tưởng lại nó hiển hiện như một đoạn phim dĩ vãng buồn man mác, như sớm mai vừa thức dậy, cảnh vật còn ngái ngủ trong sương, ánh bình minh chớm ưng ửng hồng từ chân trời xa, những cánh lá mắc cỡ còn xếp kín im lìm sau đêm dài bên vệ cỏ, lòng chợt chớm bừng lên ước mơ được sống lại với thuở mới vào đời
“... Ta về tham dự cuộc chơi,
Rượu cần súng đạn với lời yêu thương...” (Huy Lực)
thuở trong khói lửa chiến tranh, của yêu thương và mộng mơ, của tiền tuyến hậu phương, đêm đêm nghe tiếng Dạ Lan êm ái và ngọt ngào trên làn sóng đài quân đội mà nghĩ đến người thân, đến bạn bè, đến quê hương rồi thương mình nhiều hơn và cũng mơ ước nhiều hơn.

Thuở phong trần ấy, thỉnh thoảng gặp những bạn cũ sau những lần ghé bến, những cuộc hạnh ngộ trà đàm hay với nhau bên tách cà phê nóng, sóng sánh thoảng ngát hương thơm, vừa nhâm nhi từng giọt đắng thi vị như giọt đời, vừa tâm sự. Nhắc lại những chuyện xưa cũ, chuyện của thời áo trắng học trò bên thầy, bên bạn; vừa dùi mài kinh sử cũng vừa chớm biết yêu đương vọng ước và chuyện của lúc bấy giờ, những oái oăm tình đời tình người, chuyện cô thầy giáo kẻ thay trường người đổi lớp, chuyện của bạn bè thằng nhập ngũ, đứa lấy vợ lấy chồng, chuyện của quân dân cán chính nổi trôi theo dòng đời, những gian nguy, đói no, sống chết sa trường...nhìn nét khắc khổ nhọc nhằn hằn rõ trên những khuôn mặt thân quen đã cằn cỗi sạm nắng theo thời gian, đã bị tước đoạt đi hết vẻ thông minh tươi sáng của ngày xưa mà thấy lòng ngậm ngùi; gặp nhau chén tạc chén thù, chén chú chén anh trong giây lát để tạm quên nỗi gian truân tưởng chừng như vây kín cuộc đời còn lại! Lời không nói hết, nhưng lòng cùng dạt dào nỗi mừng vui khi tay bắt mặt mừng, qua những mẩu tâm sự đứt quãng ngập ngừng như những đóm sao rơi trong trời lặng lẽ.
“... Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đời người u uất nỗi chơ vơ...”(Vũ Hoàng Chương)

Lòng bình an trong phút giây mà những dư ảnh nhỏ nhoi dĩ vãng, của đời học trò bên thầy cô bạn hữu chung trường chung lớp, từng ánh mắt nụ cười, từng cử chỉ, giọng nói cá biệt lúc vui, khi buồn là những kỷ niệm dù chỉ quẩn quanh bên nhau một thời nhưng mãi mãi không nhạt nhoà trong tâm khảm. Hình ảnh Trần Thị Tú bỏ bạn bè gần cuối năm đệ thất, vào một chiều mùa đông mưa bão để về miền miên viễn, rồi một ngày Đặng Ngọc Minh cũng lìa chốn hồng trần trở lại cõi vĩnh hằng khi vừa tròn trung học, rồi Bùi Thị Cẩm Hà, Nguyễn Thị Kim Chi …luôn luôn dành cho bạn bè nụ cười thân mến và giọng Huế ngọt ngào, ngày nay đã vĩnh biệt thế gian. Có những người bạn sau khi rời ghế nhà trường, “giã nhà đeo bức chiến bào” gánh đời binh nghiệp, lăn lóc gió sương gian khổ băng rừng vượt suối, lội sình lầy từ Bến hải đến Cà Mâu, từ cao nguyên xuống đồng bằng, xông pha khắp các mặt trận, từ A shaw A Lưới, Tchepone, Đức Cơ, Bình Giã, Mỏ Vẹt, Năm Căn Đầm Dơi, U Minh Chương Thiện, đến “Mùa hè đỏ lửa,” “Đại lộ kinh hoàng,” cổ thành Quảng trị, tận Bình Long, An Lộc…trong số những bạn bè chúng ta đó có biết bao người đã viết trọn dòng lên trang sử Việt, theo gót tiền nhân cỡi ngựa Thiên vương để lại nắm đất bên đường; ai trong chúng ta còn nhắc đến tên họ. Rồi sau khi tàn cuộc, có những người bằng mọi giá vượt chết để đi tìm cái sống, trong đó nhiều người đã vĩnh viễn không bao giờ đến được bờ bến tự do, ta không quên Đặng Trần Dũng là một trong hàng trăm vạn người đã trả một giá quá đắt bằng chính sinh mạng mình trên đưởng vượt biển vì khao khát tự do…xin thắp nén hương lòng cầu nguyện cho linh hồn anh và vong linh các bạn bè thân yêu đã xa lìa trần thế được thảnh thơi nơi cõi vĩnh hằng.

Còn gì nữa để tơ tưởng để ưu tư, vì“... Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ...”(Vũ Hoàng Chương.)

Và, bây giờ trong lòng chỉ còn là hoài niệm, hoài niệm về một cuộc đổi đời tàn nhẫn, là những  khúc phim ghi lại những mảnh đời tan tác theo thứ tự thời gian được lưu giữ kín trong hộp quá khứ mà ta mang theo trọn kiếp này…

toanphong

No comments:

Post a Comment