Học đường là nơi giáo dục về văn hoá, khoa học, đạo
đức; được phát triển theo chiều dọc thuận với trào lưu văn minh tiến bộ, cùng
trưởng thành chung với dân tộc và nhân loại. Hệ thống giáo dục không chỉ trong
phạm vi học đường mà kết hợp với gia đình và nơi sinh hoạt tôn giáo. Mọi người
từ chập chững ê a cho đến khôn lớn đều được giáo dục để trở thành người hữu
dụng trong xã hội. Thầy là cột trụ của học đường, là những người gương mẫu cả
phẩm hạnh và văn hoá dẫn dắt và dạy dỗ đám hậu sinh lếch thếch vào hàng ngũ tôn
ti trật tự trau dồi kiến thức và đạo đức.
Tôn ti trong xã hội học đường từ xưa tới nay vẫn giữ
theo nề nếp Quân Sư Phụ, coi đó như giềng mối quan hệ khắn khít trong nhân
quần. Quan niệm “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” là cái dấu chỉ sự tôn kính thầy,
thầy là bậc khai mở tâm trí cho thế hệ hậu sinh, là vị ân sư. Con người được
sinh ra bỡi cha mẹ, được nuôi dưỡng vươn lớn đẫy đà, vai u thịt bắp nhưng trí
tuệ do thầy mở ra và dạy dỗ bắt đầu thu nhận kiến thức văn hoá khoa học và đạo
đức nhân, lễ, nghĩa, trí, tín để thành “nhân” thích nghi trong gia đình, xã
hội. Thầy cũng truyền dạy căn bản, nghề nghiệp cho trò để chuẩn bị cho bước
tương lai; câu tục ngữ “Không Thầy đố mầy
làm nên” rất hữu lý. Không có thầy thì con người trở thành mất dạy; mà con
người mất dạy là con người dư thừa, vô dụng. Giá trị về đạo đức, nhân phẩm và trí tuệ của
con người vốn bất di bất dịch dù ở lứa tuổi nào, địa vị, thời đại nào. Nếu
không nuôi dưỡng văn hoá, văn minh khoa học, đạo đức nhân phẩm và liêm sỉ; thì
con người chỉ là cái hình tượng và sẽ là cái máy có cảm xúc, hành động theo cảm
tính, tuân theo chỉ đạo hay sai khiến của kẻ khác. Nó sẽ là sự hăm doạ mọi mặt
cho xã hội, cho quốc gia.
Ngạn ngữ có câu:
“Ngọc
bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”
Viên ngọc có được giũa mài mới trở thành hạt ngọc quý;
người có học, có trau dồi kiến
thức, tiếp thu cái hay, cái mới, cái tiến bộ của nhân loại, mới biết, mới nhận thức được đúng, sai,
tốt, xấu, hiểu rõ các vấn đề, để biết
giao tiếp, ứng xử, biết sống hoà
hợp quan hệ giữa người với người, nâng cao khả năng chuyên môn, hoàn
thiện nhân cách để tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ “Đại học chi đạo tại minh minh đức,
tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện.
(Khổng Tử)” nghĩa
là Cái
đạo (hay con đường) của Ðại Học ở chỗ làm sáng cái đức sáng của mình, làm mới
mình ra và theo đúng với toàn mỹ. Học bắt đầu
từ học đường, người không học
thì không biết đạo nghĩa ở đời. 11
tuổi bỏ làng vào bưng theo du kích, trình độ tri, trí thức được bao nhiêu để
đem áp dụng, làm cho quốc gia dân tộc tốt đẹp.
Theo bài viết XƯNG HÔ TRONG TRƯỜNG HỌC NGÀY NAY của Ts
Nguyễn Thị Từ Huy, Văn hoá Nghệ An
Rút ra vài ý chính của tác giả : “Khi học sinh mẫu giáo bị gọi là « con », có
nghĩa là là quan hệ trường học bị chuyển thành quan hệ gia đình. … tước đi của đứa trẻ ý thức rõ rệt về vai trò
mới này của mình”
“… Sinh viên là những
người đã ở độ tuổi trưởng thành, đã là một công dân đúng nghĩa, về mặt pháp
luật, có quyền tự quyết định, và phải chịu trách nhiệm cá nhân. Thế mà sinh
viên Việt Nam, trong môi trường đại học hiện nay, vẫn không được phép cảm nhận
sự tôn trọng của xã hội đối với mình trong tư cách là công dân, vẫn bị ấn sâu
vào quan hệ gia đình trá hình do các thầy cô thiết lập nên khi gọi họ là « con
»…”
“…sinh viên và học
sinh xưng « tôi » với thầy cô, và thầy cô gọi học sinh sinh viên là « anh », «
chị », thì có thể các tệ nạn giáo dục sẽ giảm xuống, chất lượng giáo dục sẽ
tăng lên phần nào, … sự tôn trọng của người dạy dành cho người học lớn hơn, vì
tương tác giữa người dạy và người học là tương tác giữa các cá nhân bình đẳng…”
“…Khi tự xưng là « em
», « con », « cháu » với một người không thuộc gia đình mình thì người nói bị
áp đặt luôn cái ý thức về thân phận thuộc đẳng cấp dưới của mình và bị áp đặt
luôn cả cái ý thức rằng do thân phận bé mọn mà mình phải phục tùng người đối
thoại. …Cơ chế của một xã hội triệt tiêu ý thức bình đẳng và ý thức cá nhân…”
Ts Nguyễn Thị Từ Huy đã nêu vấn đề “xưng” và “gọi”
giữa thầy và trò và lý luận cho đó là tệ nạn áp đặt của thầy cô giáo tước đoạt ý thức tự chủ, làm triệt tiêu ý thức bình đẳng và ý thức cá nhân của học trò.
Ngay tại học đường!
Học trò gọi “thầy” và xưng “con” hoặc
“tôi” hay “em” tuỳ theo lứa tuổi, trình độ cũng như thói quen ở gia đình hay ngoài công cộng là sự thường tình, một đức tính cần
có trong đối thoại giữa thầy và trò, hợp với đạo lý, lời xưng hô xuất phát từ
trong tim óc với cung cách lễ phép kính trọng, vì thầy là biểu tượng cho nhân
từ, đạo đức độ lượng và trí thức, thầy không áp đặt trò phải xưng sao cho phải
và trò không đòi hỏi thầy phải gọi sao cho đúng, tự người học trò đã biết đúng
biết phải khi xưng hô với thầy hay với người lớn.
Từ ngàn năm trước, khi có hương xã thì đã có cái tôn ti sư đồ, cái tôn ti đó vẫn lưu giữ và tôn trọng cho đến ngày nay. Vào những năm học đầu đời vỡ lòng, mẫu giáo, lớp năm (lớp 1 bây giờ) học trò gọi thầy, cô và xưng con, và ngược lại gọi học trò là con và xưng thầy hay cô, với lòng vị tha vừa yêu mến học trò nhỏ vừa tập cho chúng quen dần với hoàn cảnh mới, thầy vỡ lòng và dạy dỗ chúng về trí dục và đức dục, về lễ phép đạo đức từ trong nhà ra ngoài đường, qua trường học. Gọi dạ, bảo vâng, vòng tay, cuối đầu với thầy cô, với cha mẹ, anh chị và với những người lớn không phải tước đoạt tư cách, danh dự hay ý thức tự chủ của trẻ mà dạy chúng bắt đầu học tập thành thói quen, dần dần hiểu biết và nhớ để áp dụng vào đời sống hằng ngày từ đó và sau này. Khi thầy cô gọi học trò nhỏ là “con” là muốn cho chúng có được cái cảm giác êm ái và ấm áp của tình thương mến nơi trường học như trong gia đình, chứ không biến đổi quan hệ thầy trò thành quan hệ gia đình; quan hệ thầy trò là quan hệ “tinh thần” không thể thay thế quan hệ cha mẹ con cái là quan hệ gồm cả “tinh thần và vật chất” được. Đại từ “con, cháu” đâu phải chỉ được dùng cho cha mẹ, ông bà gọi con cháu ruột của mình mà thôi, chúng được dùng một cách không giới hạn miễn sao đúng cách, đúng nhân vị để giữ được cái tôn ti, giá trị đạo đức, phẩm cách cá nhân và tình tương ái trong cộng đồng, xã hội để diễn đạt cái tình cảm tương quan và tôn trọng lẫn nhau giữa người với người.
Từ ngàn năm trước, khi có hương xã thì đã có cái tôn ti sư đồ, cái tôn ti đó vẫn lưu giữ và tôn trọng cho đến ngày nay. Vào những năm học đầu đời vỡ lòng, mẫu giáo, lớp năm (lớp 1 bây giờ) học trò gọi thầy, cô và xưng con, và ngược lại gọi học trò là con và xưng thầy hay cô, với lòng vị tha vừa yêu mến học trò nhỏ vừa tập cho chúng quen dần với hoàn cảnh mới, thầy vỡ lòng và dạy dỗ chúng về trí dục và đức dục, về lễ phép đạo đức từ trong nhà ra ngoài đường, qua trường học. Gọi dạ, bảo vâng, vòng tay, cuối đầu với thầy cô, với cha mẹ, anh chị và với những người lớn không phải tước đoạt tư cách, danh dự hay ý thức tự chủ của trẻ mà dạy chúng bắt đầu học tập thành thói quen, dần dần hiểu biết và nhớ để áp dụng vào đời sống hằng ngày từ đó và sau này. Khi thầy cô gọi học trò nhỏ là “con” là muốn cho chúng có được cái cảm giác êm ái và ấm áp của tình thương mến nơi trường học như trong gia đình, chứ không biến đổi quan hệ thầy trò thành quan hệ gia đình; quan hệ thầy trò là quan hệ “tinh thần” không thể thay thế quan hệ cha mẹ con cái là quan hệ gồm cả “tinh thần và vật chất” được. Đại từ “con, cháu” đâu phải chỉ được dùng cho cha mẹ, ông bà gọi con cháu ruột của mình mà thôi, chúng được dùng một cách không giới hạn miễn sao đúng cách, đúng nhân vị để giữ được cái tôn ti, giá trị đạo đức, phẩm cách cá nhân và tình tương ái trong cộng đồng, xã hội để diễn đạt cái tình cảm tương quan và tôn trọng lẫn nhau giữa người với người.
Ở bậc tiểu học, thường thường học trò được thầy cô gọi
“các em”, lên bậc trung học thầy gọi “các em, các anh, chị” và xưng thầy, cô
hay tôi như phép giao tế thường nhật tại học đường, họ trao đổi cách xưng hô như vậy với lòng yêu mến
khoan dung và độ lượng chân tình để rồi sau này suốt đời người luôn trân trọng,
xem đó như tình sâu của ân sư đã khai mở trí tuệ cho mình; có gì không ổn, có
gì sai ở đây? Đâu phải vì như vậy mà nói rằng người học trò đã bị “cưỡng chế” ý thức về tính tự chủ, sự bình đẳng và giá
trị cá nhân!
Đến khi lên những lớp học cao hơn ở cuối bậc tiểu học,
(lớp nhì (lớp 4) lớp nhất (lớp 5)) hay những lớp đầu tiên của trung học, (đệ
thất (lớp 6) đệ lục (lớp 7)) tuổi của người học trò bấy giờ mới vào khoảng 13
hay 14 tuổi, vẫn gọi thầy cô và xưng con hay xưng em bỡi có nhiều thầy và cô
giáo lớn hơn hay bằng tuổi của cha mẹ; cũng có nhiều thầy cô vừa tốt nghiệp sư
phạm quốc gia hay đại học sư phạm và một số thầy dạy giờ ở các trường trung
học, còn trẻ tuổi, thì gọi học trò là “các trò” hay “các em” và xưng thầy, cô.
Ở những lớp cao hơn nữa từ đệ ngũ (lớp 8) đến đệ nhị, đệ nhất (lớp 11, 12) học
trò vẫn gọi thầy cô và xưng “em” hay “tôi” và ngược lại thầy gọi các “anh chị”
và xưng “tôi”. Lên bậc cao đẳng, đại học, sinh viên vẫn thường gọi giáo sư là
thầy, giáo sư hay giảng sư và ngược lại, giáo sư gọi sinh viên là “anh chị”
hoặc “em (cá nhân)” và xưng tôi hay chúng tôi.
Dù tiếng gọi và xưng hô có biến thiên theo thời gian
và trình độ thì trong tiếng gọi và xưng đó chứa sự kính mến cảm kích nghĩa nặng
ơn sâu của thầy, không có bất kính hay khinh miệt cho dù người học trò
kém thông minh hay người thầy già nua hoặc còn non trẻ. Vì thầy và trò là hai
phạm trù ngự trị tại học đường, hàm chứa tròn nghĩa của giáo dục văn hóa và đạo
đức cũng như tiếp nhận trau dồi kiến thức về mọi phương diện để trở thành người
hữu dụng trong xã hội, là viên gạch tốt cho nền tảng quốc gia dân tộc.
Trước 1975, dù miền Nam VN chìm ngập trong chiến tranh
gian nan, nhưng xã hội vẫn rất đề cao ngành giáo dục, “tôn sư trọng đạo” luôn
hiện hữu, thầy là vì sao sáng đạo đức nhân từ và liêm chính, thầy cho trò
chữ nghĩa, dạy trò giáo khoa văn hoá, khoa học, lịch sử, địa lý còn dạy luân
thường đạo lý, liêm sỉ, tư cách và đạo đức trách nhiệm làm người trong gia
đình, trong xã hội, trong tôn giáo. Dạy cho tư tưởng về bổn phận công dân với
quốc gia dân tộc (đức dục, công dân và tâm lý đạo đức triết học.) Thầy cô luôn
được trọng vọng và kính nể từ học đường ra ngoài xã hội, không chỉ bỡi học trò
mà bỡi mọi người.
Ngày nay giáo dục học đường ngày càng bị
xem nhẹ; tại nhiều trường, có nhiều ‘thầy không ra thầy, cô chẳng ra cô”, thầy
bán chữ cho trò, dạy trò cách xảo quyệt và tàn ác, vô cảm; tại các trường thi,
COCC không thi cũng đậu cao, giám thị phòng thi là những người cung cấp
bài giải sẵn cho thí sinh nào có “đóng” hối lộ, để rồi cả phòng thi, trung tâm
thi trở thành nơi “không thi” chỉ chép bài rồi nộp, và kết quả kỳ “không thi”,
bộ “giáo dục và đào tạo” lập “thành tích cao” 98 đến 100% thí sinh đậu tốt
nghiệp. Học đường không có môn học đức dục và công dân trong “giáo án” của
“giáo dục và đào tạo” nhưng lại có “phê và tự phê” thi đua tạo “thành tích” lấy
điểm.
Trường học cũng là môi trường tạo ra tham nhũng “hối lộ phổ biến trong các trường phổ thông và sự thừa nhận rộng rãi
rằng học sinh bị buộc phải học thêm đại trà (nếu không sẽ có nguy cơ bị phân
biệt đối xử khi đánh giá học tập) cho thấy cảm nhận chung của phụ huynh là
"hệ thống trường công không có khả năng đáp ứng hiệu quả…” “Đưa hối lộ để
được nhận vào trường "điểm" đã được coi là hiện tượng thông thường mà
chỉ có các gia đình khá giả mới có điều kiện thực hiện, từ đó khiến cho trẻ em
ở các gia đình nghèo phải chịu thiệt thòi." (Vietnamnet 02/10/2013 -
3.000 USD một suất “chạy” trường)
Tại lớp học, thầy cô giáo giảng bài một
cách sơ sài khó hiểu để buộc học trò không còn chọn lựa nào khác hơn là phải
đến học thêm tại chính nhà thầy cô dạy môn học đó để được đủ điểm lên lớp, trò
nào nghèo, khó khăn không học kèm thì sẽ bị hất hủi và thành tích kém ở trường.
Có những thầy giáo hăm doạ, ép buộc, xúi dục, quyến rủ, nữ sinh, sinh viên phục
vụ tình dục để đổi điểm lên lớp hay đề thi tốt nghiệp (như SĐX hiệu trưởng
trường Việt Vinh, Hà giang. NHL, Bắc ninh. ĐTĐ trường Cao đẳng Phát thanh
Truyền hình Phủ lý Hà nam. LMS Chí Đám, Phú Thọ. BCV trường THCS Lệ Thủy, Quảng
Bình. PVV, trường THCS Kỳ sơn, Hà tĩnh. TXN đại học Tây Nguyên Dăclak. NTD,
trường THCS Khánh Hòa, Sóc Trăng. PTT trường THPT Phú tân Cà mau. PVQ, trường
THPT Quang Trung Bình Phước. MTP, giáo viên trường Tiểu học B Núi Sam Châu Đốc
cho đến TTB giám thị trung tâm giáo dục Tân bình Sài gòn…..) và còn hàng ngàn
vụ tồi bại khác nữa mà lũ sâu thầy đã “đào tạo,” đã làm tan nát những mảnh đời
nữ sinh từ bắc tới nam và cao nguyên, còn bị dấu kín vì xấu hổ, vì mặc cảm, vì
sĩ diện của cá nhân hay gia đình. Như vậy phải dạy cho học sinh sinh viên nhìn
thầy bằng nhãn quang nào để tôn kính?
"Tôi
không dám tin điều đó là sự thật. Đây là sự băng hoại về đạo đức trong nhà
trường, vô cùng đáng buồn và đáng lo ...” “Đa
số ý kiến dù phát biểu theo hướng nào cũng đều có liên hệ đến tình trạng xã hội
hiện nay, mà ai cũng thấy đầy rẫy gian trá, lừa đảo, độc ác, vô nhân…” “Đạo đức tối thiểu còn
hiếm, trách gì vô cảm...” (những phát biểu của Gs Hoàng Tuỵ)
“…bởi nhà giáo phải coi
trọng phẩm chất đạo đức lên hàng đầu, sau đó mới nói đến chuyên môn, tất nhiên
đây là hai yếu tố không thể tách rời… giáo viên này "ăn tiền", giáo
viên khác "gạ tình đổi điểm" tôi lại giật mình. Ngày xưa, không có
những chuyện như thế.” (GS.VS Nguyễn Cảnh Toàn - Nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT)
“Trò” và “thầy” là những hiền đồ và ân sư, là những
con người chứ không phải là những “thằng người” thầy có những tư tưởng, hành
động mất tư cách, vô liêm sỉ, ép buộc học trò quá đáng, không lo cho tương lai
của học trò, chỉ ham muốn cho cá nhân thầy thì làm sao đòi hỏi được “tôn sư trọng đạo” ở học
trò ?
Muốn có "tôn sư
trọng đạo" thì trước tiên thầy phải cho ra thầy, ngày nay đạo đức của một
số thầy cô giáo xuống cấp trầm trọng, thầy không ra thầy cho nên có số học sinh
thường gọi là "thằng thầy", thử hỏi như vậy làm sao mà "tôn
sư" được. Thiết nghĩ một người thầy, cô giáo mà học thức uyên thâm, đạo
đức mẫu mực thì mọi người sẽ nghiễm nhiên "tôn sư trọng đạo" (Hùng Đại Việt -
24-04-2012 - một trong hàng ngàn ý kiến phê bình thầy giáo, học đường đăng trên
mạng xã hội ở trong nước.)
Chính học trò từng là nạn nhân, từng nghe, từng chứng kiến sẽ nhận xét và
phê phán về những “đứa thầy” đã tự bôi đen cái tư cách, liêm sỉ của nghĩa
vụ làm thầy, tự đập vỡ cái gương sáng trí thức và đạo đức chói lọi của hàng
giáo chức học đường trước học trò.
“Một lần thất kính, vạn lần
bất kính,”
“Thầy thuốc sai lầm giết
chết một bệnh nhân, thầy giáo sai lầm làm hỏng một thế hệ…”
Làm sao thầy cô dấu cho kín được hay không nhận những “phong bì” hoặc
những “thùng quà” trong “ngày “đại lễ” nhà giáo” hằng năm, mà những phụ huynh
nghèo phải rất đau khổ ráng lết theo vì con. Có những thầy cô khi nhìn thấy đứa
học trò của mình ngoan ngoãn và học hành giỏi và mặc dù họ chỉ nhận được một
nhánh hoa đơn sơ nhưng ý nghĩa, một lá thư hoặc một cánh thiệp tạ ơn thầy từ
bàn tay của học trò mình trong “ngày nhà giáo” là quá đủ để mừng vui và mãn
nguyện thì chắc chắn danh thơm của người thầy nhân từ và thanh liêm đó được ghi
đậm trong tim óc học trò.
Thầy giáo có 2 hạng, một là người có khả năng sư phạm, kiến thức chuyên
môn cao, đạo đức thanh liêm và trách nhiệm, luôn tận tuỵ với học trò; hạng thứ
2 làm thầy chỉ vì tiền và danh, thiếu trách nhiệm, thất đức, vô liêm sỉ. Trong
cách xưng hô giữa thầy trò giao tiếp hằng ngày có thể diễn đạt tư
cách tôn trọng và quý mền lẫn nhau, hay bộc lộ cung cách kênh kiệu, hách
dịch, miệt thị và hỗn xược bất kính của một phần tử đối với một phần tử. Có
thầy cô dùng những ngôn từ nặng nề khiếm nhã để xỉ vả học trò: “Đầu voi, óc chim sẻ” hoặc “Ăn mặc lôi thôi
thế này thì chỉ đi bán cà chua thối…” (tại 1 trường ở “thủ đô” Hà nội.) đã
xúc phạm và làm tổn thương tự ái của phụ huynh.
Khi đi học, học sinh mặc đồng phục là
giữ gìn đồng bộ và qui cũ, cũng là hình ảnh làm đẹp cho trường, nhưng cần sự
đơn giản và tiết kiệm, đừng xử dụng quyền lực mà ép buộc học trò, tạo ra tệ nạn
học trò phải mua đồng phục do nhà trường bán ra với giá mỗi bộ bằng giá
100 giạ lúa! và những lệ phí vô lý khác nữa, phụ huynh nghèo tiền đâu đề mua,
lấy gì đóng phí khi gia đình ăn không đủ no mặc không đủ ấm ?
Từ lâu đời, trong xã hội VN, vị trí cô và thầy giáo
được đặt rất cao, sau lãnh tụ quốc gia nhưng trước cha mẹ; với khả năng sư
phạm, sự tận tuỵ và lòng độ lượng của thầy cô giáo đã dạy dỗ học trò ngoài kiến
thức văn hoá khoa học còn giảng dạy môn đức dục về nhân nghỉa lễ trí tín, biết
chia sẻ, thương yêu, biết kính trên nhường dưới từ thế hệ này đến thế hệ khác,
học trò hết lòng tôn kính thầy cho dù họ chưa học thầy cô đó nửa chữ; ra đường,
bất cứ ai gặp thầy cô giáo đều tỏ lòng kính trọng cho dù họ không có con cái
hay thầy cô đó không phải là thầy dạy con cái họ, chứng tỏ nề nếp khuôn phép lễ
nghĩa và đạo đức trong xã hội là do cái “tiên học lễ” ở học đường, gia đình và
nơi sinh hoạt tôn giáo. Câu cách ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” thỉnh thoảng chỉ
được viết 1 dòng trên đầu bảng đen trong các lớp học trò nhỏ ở bậc tiểu học để
thầy cô giảng đức dục. Nhưng đạo đức từ học đường ra ngoài xã hội luôn tốt đẹp.
Ngày nay, tại học đường ở VN học trò không còn biết
vâng lời và kính trọng thầy nhất là đám học trò con nhà “quyền tộc, đại gia”.
Thầy thì tham lam, lừa gat, không tôn trọng phẩm giá trò. Tình trạng dạo đức từ
lãnh tụ tới quan lớn quan con, thầy giáo học trò đều suy đồi thãm hại, tụt
xuống tận đáy, nhà nước cố gắng vớt vát nâng cấp, đổi mới học đường và quần
chúng, nhan nhản tại mặt tiền của tất cả các trường cấp I, cấp II, cấp III, đại
học và ngay cả ngoài phố, có thể đọc được từ đàng xa câu cách ngôn “TIÊN HỌC
LỄ, HẬU HỌC VĂN” được dùng làm “khẩu hiệu” trên toàn cõi lãnh thổ VN,
nhưng văn thì may ra có, mà lễ thì chẳng khá chút nào; không gượng lên nổi. Một
xã hội mà trong đó không có công bằng, tự do, dân chủ nhân quyền và dân quyền;
chỉ có độc tài, độc ác, bất công, tham quan, tham nhũng hối lộ; xã hội bất ổn,
hỗn loạn trầm kha .
“Đạo đức xã hội xuống cấp đáng báo động, xuống cấp ở mọi lĩnh vực, kể cả y đức và giáo dục…” tuyên bố của bà phó chủ tịch nước VC Nguyễn Thị Đoan
“Đạo đức xã hội xuống cấp đáng báo động, xuống cấp ở mọi lĩnh vực, kể cả y đức và giáo dục…” tuyên bố của bà phó chủ tịch nước VC Nguyễn Thị Đoan
Khi sơn hà nguy biến, công dân muốn đem cái tri thức của mình để làm việc
ý nghĩa. Thầy dạy rằng, là một công dân phải biết yêu và hy sinh cho tổ quốc
đồng bào, nhưng khi bày tỏ tình yêu tổ quốc lại bị ngăn cấm và đàn áp, phản ảnh
tiêu cực vào sự giáo dục ở học đường.
Nhớ tới Trần
Quốc Toản thời nhà Trần, còn nhỏ tuổi không được vua Trần cho vào tham dự hội
nghị Bình Than để bàn kế chống quân Nguyên (1282). Quốc Toản trong lòng tuy hổ
thẹn, nhưng hừng chí, bóp nát quả cam trong tay (biểu tình bất bạo động.)
Sau đó về huy động đông đảo gia nhân và thân thuộc, rèn đúc vũ khí,
đóng thuyền, dựng cờ với sáu chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân,"
đánh quân Nguyên (kẻ thù phương bắc) ở bến Tây Kết 1285 nên được sử Việt
Quốc gia tôn vinh anh hùng của dân tộc. Nếu Trần Quốc Toản hành động như vậy
dưới triều nhà Nguyễn ngày nay thì Trần Quốc Toản đã bị công an “nhân dân” đàn
áp và nhốt tù khổ sai chung thân hay tử hình vì tư tưởng và hành động chống kẻ
thù truyền kiếp bắc phương, giống như những hậu duệ sinh viên Đinh Nguyên Kha,
Nguyễn Phương Uyên, những Bloggers Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Hoàng Vi, Trịnh
Kim Tiến, Phạm Thanh Nghiên… cùng hàng ngàn người trẻ khác trong nước, ý
thức được bổn phận và trách nhiệm của minh, đã và đang đấu tranh ôn hoà đòi lại
quyền tự do dân chủ và phản đối Tàu cộng xâm lược lãnh thổ, hải đảo và biển
Đông, cướp bóc, bắn giết ngư phủ VN đang bị nhà nước VC ghép tội chống phá và
khủng bố nên thẳng tay đàn áp dã man, bắt bớ giam cầm.
Nếu dùng ngôn ngữ Trung hoa hay tiếng Anh để so sánh với tiếng Việt và
cho rằng những ngôn ngữ đó chỉ có 2 nhân xưng đại từ đơn giản trong đàm thoại
trực tiếp giữa thầy cô và trò nên không đáng bàn tới, chưa hẳn đúng hoàn toàn,
vì vẫn có sự kính trọng trong cách xưng hô; thí dụ tiếng Trung hoa không chỉ có
“ngộ” và “nị” nhưng còn có “sư phụ, sư mẫu” để chỉ thầy cô và “đệ tử” để chỉ
học trò trong gọi và xưng rõ ràng sư và môn sinh, cũng như trong tiếng Anh,
không chỉ YOU và I hay ME dùng làm chủ từ, túc từ trong mệnh đề đàm thoại mà
còn có những chỉ danh Mr hay Ms Professor, Mr hay Ms Teacher để gọi thầy
cô tại trường và dùng I hay ME không có nghĩa là TÔI cộc lốc mà là TRÒ, là EM,
là CON, là TÔI đi với Professor hay Teacher. Và như vậy không có nghĩa là không
bình đẳng. Bình đẳng ở học đường là đạo đức và tôn trọng với tinh thần, lòng
bao dung và độ lượng trong đào tạo và cầu tiến. Người học trò không bị cưỡng ép
phải dùng nhân xưng theo ý muốn của thầy cô, mà người học trò xử dụng ngôn từ
tôn xưng thầy cô theo suy nghĩ và nhận thức của chúng hợp với đạo lý và bày tỏ
sự tôn kính của chúng với thầy cô, không có vấn đề đặt ra “lối xưng hô nhằm thiết
lập quyền lực hay áp đặt sự phục tùng, đó là hệ quả của một cơ chế xã hội xóa
bỏ quan hệ dân chủ” (Ts Nguyễn Thị Từ Huy.)
“về sự bình đẳng, và
giá trị cá nhân
của thầy trò tại học đường” nói đến thầy trò, là đã nói đến cái tôn ti hay đẳng cấp của nó rồi; ở
cương vị thầy cô là những người lớn tuổi hơn trò, kinh nghiệm đời hơn trò, trí
và tri thức hơn trò, như vậy phải nhận được sự kính trọng và vâng lời của trò
là những hậu sinh, chịu sự giáo dục dạy dỗ để trong tương lai sẽ có trình độ và tư cách
như thầy cô hay hơn. Nếu trò không chấp nhận và đòi hỏi sự bình đẳng, tiến sĩ
Từ Huy không nói rõ bình đẳng về phương diện nào, trình độ, đạo đức, liêm sỉ,
danh dự hay tư cách của cá nhân? Trí và tri thức là chủ đạo của những đức tính
này rồi, thì theo tiến sĩ Từ Huy, người học trò đứng ở vị trí nào và muốn học hỏi gì
cho mình?
Nếu trở lại được với thời còn cắp sách đi học ngày xưa, thì học đường là
một không gian ấp ủ tình thầy trò tương kính tuyệt vời. Ở đó thầy, cô giáo lúc
nào cũng tỏ ra khả kính, khoan dung và độ lượng, lúc nào cũng hảnh diện với tư
cách, đạo đức, liêm sỉ và thiên chức làm thầy, luôn luôn mang ước vọng giáo dục học trò
trở thành ưu tú nơi học đường hay ngoài xã hội, cho dù thầy có tự xưng là thầy, là
cô, là tôi và dù có gọi học trò là con, là trò, là em, là anh chị hay là gì đi nữa
thì trò vẫn là học trò tốt của thầy, cô. Vẫn chuyên cần, vẫn vui
mừng một lòng tôn kính và nhớ ơn thầy suốt thởi học trò và trọn một kiếp người.
phantomai
No comments:
Post a Comment