Pages

Saturday, October 19, 2013

CỐ HƯƠNG

To Anphong
                                                       Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
                                                       Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều. (ca dao)
              
Nơi tha phương cuộc sống an nhàn, đầy đủ nhưng cũng có lúc sóng gió, đắng cay vất vả lo toan, mà vẫn có những giây phút vọng nhớ về đất mẹ, cố quốc xa vời bên kia bờ Thái bình mênh mông, nơi đó mãi mãi tràn đầy tình tự quê hương lai láng và dạt dào như sóng xô bờ.
“Nhìn xa xăm về quê hương rất xa,
        Chợt nghe tên Việt Nam ôi thiết tha …”(Việt Dzũng)
Quê hương là giang sơn cẩm tú, đã in sâu trong tiềm thức từ khi góp mặt vào đời. Lúc ấu thơ đã biết nhận diện, biết ngắm nhìn những áng mây giăng, những trăng sao vằng vặc trên trời mà ước mơ, hát ca xưng tụng. Thích thú nghe kể chuyện thần tiên, Sơn Tinh Thủy Tinh, Chú Cuội Hằng Nga, những chuyện đạo đức lễ nghĩa Tấm Cám, Trầu Cau, Lưu Bình Dương Lễ...Giờ này đã lùi xa vào dĩ vãng lâu rồi, chỉ còn hồi tưởng lưu luyến mà thôi.
Nhớ thật nhiều, hình ảnh nhân từ của mẹ với đôi mắt dịu hiền dưới những nếp nhăn trên vầng trán và những sợi tóc bạc đong đưa ngồi tựa cửa chờ con, những đứa em thơ dại vòi vĩnh hớn hở đón anh về và đời mình vai súng nón sắt giày đinh lấm bụi sa trường, vấn vương kỷ niệm, xao xuyến với những lời ca dao trao duyên chan chứa tình quê mộc mạc,
“Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất trông sông sông dài
Trông mây mây kéo ngang trời
Trông trăng trăng khuất trông người người xa” (Ca dao)
câu hát tiếng hò thảnh thót đồng vọng trong gió chiều, ru lòng người lữ thứ, tạm quên đường đời dài thăm thẳm và ngại ngùng đêm đen đang giăng mịt mù trước mặt. Thương thật nhiều những nụ cười ánh mắt trẻ thơ trìu mến, những gương mặt xinh tươi rạng rỡ, như nhắn nhủ thời gian ngừng lại cho thương nhớ lắng sâu, níu không gian nối nhịp cầu thân ái đến muôn phương. Trong ký ức của người tha hương không quên được nơi mà cuộc đời đã hằn ghi những vết thăng trầm, vinh nhục từ mới chào đời cho đến khi khôn lớn trên quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có cội nguồn, cương thổ của bao nhiêu triều đại qua những thịnh suy, những can qua tương tàn mà vẫn sinh tồn đứng cùng nhân loại. Quê hương là không gian hùng vĩ dưới ánh mặt trời, là chứng nhân chung thủy muôn đời của dân tộc, một dân tộc hợp quần xây dựng và bất khuất, anh dũng chống giặc ngoại xâm bảo vệ xã hội, chủ quyền đất nước.

Từ thời lập quốc, năm 2879 trước tây lịch, Họ Hồng Bàng, vua Lạc Long Quân nước Xích Quỷ lấy Âu Cơ sanh trăm trứng nở trăm con, truyền ngôi cho con trưởng làm vua  nước Văn Lang xưng Hùng Vương, cha truyền con nối mười tám đời. Ngày nay dân Việt nhớ công ơn Hùng Vương lập quốc, dựng đền thờ quốc tổ và lập ngày giỗ hằng năm
“Dù ai đi ngược về xuôi, 
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.”
Đời vua Hùng thứ sáu có Phù Đổng Thiên Vương đánh tan giặc Ân hung tàn, dành lại được độc lập, rồi sau đó có hàng ngàn anh hùng nối gót tiếp theo,
Thánh Gióng-Phù Đổng Thiên Vương
bao phen đánh quân xâm lăng, dành tự chủ, giữ vững giang sơn Việt Nam suốt “một ngàn năm nô lệ giặc Tàu rồi trăm năm nô lệ Tây' mà lịch sử khắc ghi 
·         Bắc thuộc từ năm 111 trước tây lịch. Đến năm 40, Anh thư Trưng Trắc và Trưng Nhị đất Mê Linh dựng cờ khởi nghĩa, đánh tan quân Hán dành độc lập, chấm dứt Bắc thuộc lần thứ nhất.
·          Năm 43 nhà Hán sai Mã Viện phục hận, Nhị Trưng gieo mình xuống Hát giang đền nợ nước. Bắc phương đặt ách nô lệ lần thứ hai.
·         Năm 541 Lý Bí khởi nghĩa thắng quân nhà Lương, dựng nên nhà Tiền Lý, chấm dứt bắc
Hai bà Trưng-Khởi nghĩa Mê Linh
thuộc lần thứ hai. Trị vì 58 năm.
·          Năm 602 nhà Tùy tràn quân sang xâm lược, đặc ách đô hộ lần thứ ba.
·          Năm 938, Ngô Quyền khởi nghĩa, đánh tan quân Nam Hán, chấm dứt đô hộ của Tàu lần thứ ba.
·       Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, dựng nên nhà Đinh.
·       Năm 980 Lê Hoàn tiếp ngôi nhà Đinh lập nên nhà Tiền Lê.
·     Năm 1009, Lý Công Uẩn thay Lê Long Đĩnh, lập nhà Hậu Lý, trị vì 216 năm. Dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La sau đổi là kinh đô Thăng Long.
·  Năm 1077 đánh tan quân Tống tại sông Như Nguyệt,  Lý Thường Kiệt viết bản tuyên ngôn độc
Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán
lập đầu tiên của nước Việt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
·    Năm 1225 Trần Cảnh soán ngôi vợ là Lý Chiêu Hoàng (vị vua cuối cùng của nhà Hậu Lý,) lập Nhà Trần. dựng nghiệp suốt một trăm bảy mươi lăm năm. Trong thời kỳ này, danh tướng Trần Hưng Đạo ba lần đại thắng quân Mông Cổ và quân Nguyên giữ yên bờ cõi.
·      Năm 1400 Hồ Quý Ly ép vua dời đô vào Thanh Hoá, truất ngôi cháu ngoại Trần Thiếu Đế, lên ngôi, đổi quốc hiệu là Đại Ngu.
Lý Thường Kiệt-Phá Tống bình Chiêm
·     Năm 1407 nhà Hồ sụp đổ dưới tay quân nhà Minh. Nước Việt bị Tàu đô hộ lần thứ tư.
·         Hậu Trần (1407 – 1413).
·     Năm 1416, trải qua bao nhiêu triều đại vàng son hưng thịnh, suy vi, đế đô đổ vỡ, di dời, đến khi có “Lê Lợi vi quân Nguyễn Trãi vi thần” với “Bình Ngô Đại Cáo” dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn, mười năm nằm gai nếm mật, chém Liễu Thăng đánh đuổi giặc Minh dành lại cơ đồ, hoàn trả linh kiếm cho thần linh tại hồ Hoàn Kiếm. Chấm dứt bắc thuộc lần thứ tư Năm 1427. Lê Lợi phế vua hậu Trần, lên ngôi lập nhà Hậu Lê, trị vì 361 năm.
·        Từ năm 1627, Trịnh Nguyễn phân tranh 100 năm;
Trần Hưng Đạo - "Sát Thát"
vua Lê chúa Trịnh (đàng ngoài) phía bắc sông Gianh, chúa Nguyễn cai trị đàng trong.
·   Năm 1778, ba anh em nhà Tây Sơn diệt chúa Nguyễn đàng trong, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế Thái Đức, lập nên triều đại nhà Tây sơn. Năm 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế Quang Trung tiến đánh tan quân Mãn Thanh (do Lê Chiêu Thống rước về) chiếm thành Thăng Long. Nhà Tây Sơn chấm dứt năm 1802, tồn tại 24 năm. Sau khi bị Nguyễn Ánh đánh bại.    
·      Năm 1802 Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, lên ngôi dựng triều Nguyễn, dời đế đô về Huế. Việt Nam độc lập tự chủ qua các triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Quang Trung-Nguyễn Huệ
·      Năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng, khởi đầu 100 năm đô hộ từ thời Tự Đức và 9 triều vua tiếp theo cho đến năm 1954. Bảo Đại là vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn.

Trải qua những nhục vinh hưng phế, ngàn năm nô lệ trăm đắng nghìn cay nhưng dân tộc bất khuất không bị Tàu đồng hóa vẫn anh dũng chống quân xâm lăng "Thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương phương bắc." Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân đổi lấy hai châu Ô và Lý để mở rộng bờ cõi về phương nam. Các triều đại hoàng đế giữ vững biên cương sơn hà xã tắc, không những chỉ miền trung châu mà cả “hoàng triều cương thổ” và Biển Đông bao la, một tất đất không mất vào tay ngoại bang. Vận nước đổi thay
Huyền Trân Công Chúa
nghiệt ngã, nước Việt lại rơi vào nô lệ Pháp suốt một trăm năm. Có những phong trào Vần Vương, Duy Tân, Đông Du và nhiều anh hùng hào kiệt khắp nơi nổi lên kháng pháp; tử sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng hô to " Việt Nam vạn tuế!” trước khi hy sinh trên đoạn đầu đài. Rồi ba mươi năm huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt, máu chảy thành sông, xương chất thành gò, mà hơn bốn ngàn năm văn hiến bia khắc sử ghi lưu truyền hậu thế. Mỗi lần dành lại được độc lập là mỗi lần phải tái dựng từ đầu.

Một dân tộc từ tổ tiên cha ông và hơn nữa, tiền nhân siêu việt kiên cường, một lòng hy sinh cho đại nghĩa, với đôi tay gầy guộc nhưng cương nghị vững chắc, đã tranh đấu không ngừng, tranh đấu với quân thù truyền kiếp dành tự chủ, tranh đấu với thiên nhiên khắc nghiệt để sinh tồn, để phát triển và bảo vệ nhà Việt nam.
Vượt biển tị nạn Việt Cộng trong kinh hoàng

Từ tháng tư 1975, hàng triệu con dân Việt ngậm ngùi bỏ xứ vượt biển băng rừng chạy tị nạn Việt Cộng trong nỗi kinh hoàng, chỉ còn lại hơn ba triệu người sống sót lưu lạc đến được bến bờ tự do khắp nơi trên địa cầu, cam nhận đất người làm quê hương mới trong nỗi niềm ray rứt tiếc nuối triền miên, cho đến bây giờ bốn mươi năm chậm chạp trôi qua.
“Những ngày xa quê hương
Là những ngày mang đau thương…”( Tô Huyền Vân)

“J'ai quitté mon pays
J'ai quitté ma maison…” (Enrico Macias- Adieu Mon Pays)
“Tôi đã lìa xa đất nước tôi
Tôi đã bỏ lại mái nhà tôi…”

Vọng nhớ về quê hương, hãy để hồn mình lắng đọng với lời ru sông núi, cho dĩ vãng lên ngôi từ tiềm thức u hoài của kẻ đã một thời hy sinh hết tuổi thanh xuân của mình cho quê hương, của những người mà từ khi khôn lớn chưa một lần được đem tuổi trẻ tô điểm quê hương hoặc của những người mà từ lúc còn ấu thơ chưa được quê hương nung chí. Tự hỏi ta đã làm được gì và ta sẽ làm gì cho quê hương! Đừng hỏi quê hương, tổ quốc đã làm gì cho chúng ta! (theo JF Kenedy) Người tuổi trẻ hãy trau dồi đức dục, trí dục và thể dục, lấy lễ, trí, tín và dũng làm phương châm nhập thế lập thân, để trở thành người hữu dụng cho xã hội; rồi quê hương sẽ cho ta biết phải làm gì!
Ải Nam quan, ngày nay đã bị dâng cho Tàu cộng
Quê hương gấm vóc, từ ải Nam Quan, điểm mốc lịch sử thiên thu không phai nhòa trong lòng dân tộc Việt yêu chuộng tự do và độc lập. Nhớ xưa trụ đồng Mã Viện nhà Đông Hán dựng lên làm dấu chia ranh giới với Giao Chỉ cùng lời đe dọa "Đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt ,"  mà dân bị trị Giao Chỉ tức dân Việt ta ngày nay, sợ bị nhà Hán tiêu diệt nếu trụ đồng đổ, nên mỗi khi đi ngang qua, đã ném đá vào chân trụ, lâu đời, trụ đồng bị lấp kín. Khi quá quan, bà Huyện Thanh Quan phải bồi hồi:
 " Trụ đồng Đông Hán tìm đâu thấy,
   chỉ thấy Tây hồ bóng nước gương!”
dọc bờ biển từ Tục Lãm Trà Cổ xuống tận mũi Cà
Hậu Giang, một trong Cửu Long giang
Mau, đến Hà Tiên, viền quanh lãnh thổ Việt Nam hình cong chữ S, ngoài bình nguyên châu thổ sông Hồng miền Bắc, miền Nam có đồng bằng sông Cửu Long, Đồng Tháp Mười trù phú, với những cánh đồng lúa cò bay thẳng cánh, xanh bát ngát tận chân trời, thiên nhiên ưu đãi là vựa lúa nuôi sống dân tộc và dư thừa bán ra khắp năm châu. Những dòng sông lớn Đồng Nai, Vàm Cỏ, Tiền Giang, Hậu Giang và hằng hà sa số sông nhỏ, kinh đào nước chảy có khi tuôn tràn cuồn cuộn, có lúc lững lờ hiền hoà bồi đắp phù sa phì nhiêu lên mạch sống, với đò dọc đò ngang, trên bến dưới thuyền tấp nập. Tôm cá đầy sông, trái thơm ngọt đầy vườn, thóc lúa đầy nong dân ấm no thịnh vượng. Dãy Trường Sơn trùng điệp 
chạy song song và sát bờ biển miền Trung, nối lên tận mạn ngược thượng du Việt Bắc, có nhiều nơi chia lãnh thổ thành cụm, thành vùng, thành vũng, thành vịnh lẻ loi bởi những núi dọc, đèo ngang.
Đường đi những gộp cùng gành
Hiu hiu gió thổi trên cành cây rung” (ca dao)
Những con suối chảy róc rách lượn quanh rồi mất hút vào rừng sâu bạt ngàn, núp bóng đồi cao những trãng lớn thoai thoải thành những nương dâu, rẫy sắn khoai bắp đậu tươi tốt quanh năm. Những con đường ngoằn ngoèo, lên đèo xuống dốc, chênh vênh ra tận đầu gành chân thác, những lối quê xuyên qua xóm làng, qua 
Hoa xinh trái ngọt
những vườn cây xanh trổ hoa kết trái sum sê, trìu trĩu như gánh nặng ân tình của đất mẹ đèo bồng nuôi dưỡng đàn con vươn lớn để góp mặt với đời, làm vẻ vang giống nòi Hồng Lạc.

Quê hương tôi đó, còn in dấu những bước chân đi qua, những giọt mồ hôi, những dòng nước mắt, những tia máu hồng vương vãi là những đóng góp để điểm tô, vun bồi và bảo vệ, là ấp ủ tình thương yêu, niềm tin, ý niệm và hoài vọng chân phương trong sáng. Nếu ai mà trong tâm trường không chất chứa tình quê hương thì mang hồn người vong bản.
     “quê hương đồng nghĩa với cội nguồn và là chỗ dựa về tinh thần cho mỗi con người” (Võ Hồng)


Bưởi thanh trà Huế
Một ngày nào về lại quê hương, hãy để lòng mình thiết tha với chân tình dân tộc đồng bào, với hương đồng gió nội, với hương vị của những đặc sản quê hương với hương cốm đầu mùa Hà Nội; với thanh trà Thừa Thiên, mè xửng kẹo gương Huế, cẩm lệ Quảng Nam; mạch nha ngọt ngào Quảng Ngãi; quế cay thơm rừng cao nguyên, cà phê Ban Mê Thuột, trà Blao, mận dâu đào Đà Lạt, thanh long dịu ngọt Phan Rang; mực khô ngon đặc biệt Nha Trang; nước mắm cá nục, cá mòi, cá thu Phan Thiết, nước mắm cá cơm Hồng Danh, Hồng Đại, khô thiều An Thới, Dương Đông Phú Quốc và còn
Mè Xững Huế
nhiều nữa, nào bưởi ngọt Biên Hòa, chôm chôm, măng cụt, vú sữa Lái Thiêu, Bình Duơng. Trên đường đi viếng thăm toà thánh Cao đài Tây Ninh, dừng lại Trãng Bàng thưởng thức tô bánh canh thịt luộc tuyệt vời! Đi về miền tây Vàm Cỏ, Tiền giang sông Hậu, không thiếu gì bánh trái, nào khóm Long An, mận Trung Lương, sầu riêng, hủ tiếu Mỹ Tho, xoài cát, xoài tượng, sầu riêng, ổi, nhãn, chuối khô, chuối nướng Mỹ Thuận Vĩnh Long, bánh phồng tôm Sa Đéc, Sa giang Châu Đốc. Khi nào đi tắm biển Long Hải Vũng Tàu, nhớ mua vài ký “Mắm Ruốc bà Giáo Thảo” là mắm được chế biến không mặn như muối, không tanh như ruốc
Sầu riêng
mà ngon đặc biệt, đem về biếu bà con và sẵn dịp mua vài chục mãng cầu gai Cát lở, cua biển cầu Cỏ May Bà Rịa. Trên đường về nếu còn thời gian nên dừng lại Long Thành thưởng thức mít tố nữ, dâu tươi, mãng cầu xiêm bày bán tấp nập bên vệ đường. Có dịp xuống thăm Bạc Liêu, mua vài bao nghiêu về luộc chấm nước mắm chanh tỏi ớt, quá đỗi đậm đà không khác gì ăn nghiêu trên đường Nguyễn Tri Phương Chợ Lớn vào những chiều tối ở Sài Gòn... Hầu như ở mỗi nơi có riêng đặc sản mà nhắc đến ta phải ngẩn ngơ thèm.

Trái thanh long
Trên đường cùng về miền Trung, miền thùy dương biển xanh cát trắng, xin mời em ghé Phú Yên, tôi sẽ đưa em đi thăm đây đó và kể em nghe về quê tôi, một miền quê có nắng hạ, có mưa phùn gió bấc, có chớp bể mưa nguồn và có những tập quán dân gian bình dị
“thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.” (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Đồng bào tôi, những nông dân chơn chất thật thà, cần cù và nhẫn nại, lặn lội một nắng hai sương từ lúc gà gáy sáng cho đến khi tối mịt; bạn bè tôi
Măng cụt
cũng lam lũ cùng với mẹ cha lo miếng ăn cái mặc ngoài việc đèn sách học hành.

Dừng chân Đại Lãnh cửa ngõ vào đất sông Ba núi Nhạn, lội xuống bãi cát trắng mịn đến ven mé nước, hướng nhìn về phía chân trời xa khơi mà nghe yên bình trong gió sớm mai, từng con sóng xô bờ rì rào như lời tự tình của biển, những chiếc thuyền câu còn gác mái ngủ vùi sau lúc ngư ông về từ biển cả, thoảng tiếng vi vu qua rừng thuỳ dương bên bờ biển xanh, phía bên kia hương rừng còn phong kín ngôi trạm xe lửa cũ kỹ rêu phong đứng lạnh lùng như dẫm chân lên con đường sắt song
Mít tố nữ
song chạy khuất về cuối chân đèo.

Bình minh trên biển Đại Lãnh
Đại Lãnh-Vũng Rô-Đèo Cả là tam nguyên kết hợp của thiên địa sơn thủy phong vân, làm mốc thời gian và không gian của chào đón, hẹn hò và tiễn đưa kẻ ở người đi biệt ly ngậm ngùi. Em đứng bên này chờ đợi:
" Anh về Bình Định thăm cha,
 Phú Yên thăm mẹ.  và trở lại
             Khánh Hòa thăm em " (Ca dao Phú Yên)
lời ca dao hàm ý vẽ vết chân du mục tuần tự nam tiến của tiền nhân, gói ghém nhân nghĩa chân tình của ba tỉnh láng giềng, mà Phú Yên như bình thân để thăng bằng hai đầu gánh Khánh Hòa và Bình Định, vậy mà những kẻ tham lam, bất kính, nghịch ý tiền nhân, cải danh tiền định đổi thành “Phú Khánh” từ ngày 20 tháng 10 năm 1975, cho tới ngày 30 tháng 6 năm 1989 thì rã! Thuận lý, anh là hậu duệ của cha Bình Định và mẹ Phú Yên, nhưng em thì nguồn không rõ, gốc Khánh Hòa, không vì anh với em mà kết nên Phú Khánh sao cho thuận!
Đèo Cả-Vũng Rô
phải là Phú Yên, là “thịnh vượng thanh bình,” mà tiền nhân đã ký thác tâm nguyện lên đó cho vạn đời sau.

“Anh về ở ngoải chi lâu,
 Chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng”       (ca dao)
Lời người con gái như nhắc nhở chúng ta nhớ rằng bước chân nam tiến không dừng lại nơi này mà tiếp tục theo gót tiền nhân.

Ranh giới Phú Yên - Khánh Hoà tại Đèo Cả
Mời em tiếp tục hành trình ngược dốc Đèo Cả vào địa phận Phú Yên, đường quanh co hơn mười hai
Mây phủ Đá Bia
cây số dọc triền núi, lên lưng chừng đèo, một bên là vực thẳm Vũng Rô biển nước trong xanh giải rộng ra biển khơi, một bên là vách núi đá dựng nhiều chỗ cheo leo, ngọn Đá Bia sừng sững cao vượt hơn mọi đỉnh xung quanh như vói đụng trời xanh, có những "chiều chiều mây phủ Đá Bia"(ca dao) như đất trời hội ngộ, như Tú Uyên gặp gỡ Giáng Kiều. Đổ dốc xuống ga Hảo Sơn qua Núi Hìm, vết tích một chiến lũy tàn tạ nằm cạnh trái xa lộ, nơi mà trước hiệp định Genève 1954, một đơn vị của quân đội viễn chinh Pháp đã đóng ở đây để bảo vệ Đèo Cả huyết mạch này. Qua cầu Bàn Thạch, Hòa Xuân, quốc lộ số một tiếp tục xuyên qua xóm làng, hai bên đường là hàng tre xanh vây quanh những mái nhà tranh, thỉnh thoảng vài ngôi nhà ngói thấp thoáng xa xa. Qua phố chợ quê nhỏ, mấy người khách dừng chân đứng nhìn với nụ cười trên môi, những 
đám trẻ ngừng đùa giỡn vẫy tay khúc khích chào theo. Trước khi tới Phú Lâm, băng qua cánh đồng ruộng mênh mông; giống như đồng Tuy hòa, được canh tác hai mùa nhờ mương dẫn nước từ đập Đồng Cam thượng
Đồng Tuy Hoà
dòng sông Ba. Đây là vựa lúa không những  của Phú Yên mà của cả miền Trung Việt. Khoảng năm 1948, máy bay của quân đội Pháp ném bom phá sập hai cầu máng của dòng mương phía bắc sông Ba, ngang qua con suối sâu phía trên đèo Dinh Ông và dòng phía nam, bắc qua sông Đồng Bò. Không còn nước dẫn thủy nhập điền nữa, đồng ruộng khô cằn, nông dân phải làm gieo làm dập và trông chờ trời mưa, ở nhiều vùng quê, dân làng lập đàn cầu đảo xin trời cho mưa. Những năm hạn hán mất mùa, dân quê khổ sở, thiếu gạo, phải ăn cơm độn sắn khoai bắp và cả củ 
cây chuối. Mãi đến sau
Cầu máng dẫn nước
năm 1954, xây lại hai cầu máng, tu bổ và vét mương sâu, tái dẫn nước Đồng Cam về đồng, hoa màu tươi tốt được mùa, đời sống nông dân khả quan, thôn xóm an lành.

Mơ ước có những ngày tháng thanh bình, được nghe lại những tiếng ru con trong đêm trường thanh vắng, những tiếng hò lô của lũ trẻ mục đồng qua những lời ca dao đồng dao mộc mạc, được nhìn lại cánh đồng trĩu hột thơm mùi lúa chín vàng khi mùa gặt đến. Những nông phu bận rộn, người gặt, kẻ bó, chỗ kia phơi rạ, chỗ này đập lúa, kẻ sàng người sảy, kẻ đong vào thúng, người gánh về mau kịp hoàng hôn chạng vạng. Thèm hương vị ngày
Mùa gặt
mùa, bát cơm gạo lúa mới ăn với chút nước mắm ngon giằm ớt cay thêm vài lát khế, khúc dưa leo non đạm bạc mà ngon đáo để! Những đàn cò bay nhanh về núi khi chiều dần lên trên những ngọn cau, như những bó đuốc nhoi cao rọi sáng trong trời, lúc lũ trẻ còn nô đùa bên góc sân đình làng, tung tăng như đàn sẻ, trên đường quê những học trò nhỏ trở lại nhà, dắt chiếc xe đạp vô tình để gió thổi tà áo bay bay. Xa xa những sợi khói nhẹ bay lên từ những mái tranh nhà ai đang sửa soạn bữa cơm chiều khi đám mục tử đang lũ lượt lùa trâu về.

Cầu Đà Rằng-Sông Ba-Nhạn Tháp-Núi Chóp Chài
Cầu Đà Rằng ngày khánh thành 13-02-1971
Nhớ sao là nhớ! Ngồi im lặng bên cửa sổ, hít làn gió nồm mang vị muối nồng từ biển khơi, thấm vào tận trong hồn khi xe qua khỏi thị trấn Phú Lâm, chạy về phía cầu Đà Rằng, chiếc cầu sắt hai mươi mốt nhịp sơn đen, dài nhất miền nam Việt nam chưa kể cầu sông Chùa, đã một lần bị đồng minh đánh Nhật ném bom sập một số nhịp và được tái thiết sau năm 1954, xử dụng cho xe lửa, xe hơi và xe máy chạy từng chiều. Đến năm 1970, TD 201 thuộc LD20/CBCĐ xây dựng một chiếc cầu bê tông xi măng song song và dài bằng cầu sắt dành cho xe hơi và xe máy chạy hai chiều, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cắt băng khánh thành ngày 13 tháng 2 năm 1971. Nếu nhìn từ Phú Lâm về phía núi Chóp Chài, cầu  Đà Rằng và tháp Nhạn là một chuỗi thắng tích tuyệt mỹ, là một biểu tượng ý nghĩa của Tuy Hòa nói riêng và Phú Yên nói chung, mà hình ảnh đó không ai có thể quên được, mỗi khi nhắc tới dù vô tình hay cố ý cũng sẽ nghe lòng mình rưng rưng xao xuyến.
Thành phố Tuy Hoà bên bờ Đà giang

Xe qua cầu, gió biển lồng lộng và se lạnh, kéo cao cổ áo để khỏi vơi đi nồng ấm đang dâng lên trong
lòng. Dưới sông, làn nước hờ hững chảy lững lờ, có quyện đôi vòng chân cầu rồi cũng chảy ròng ra biển nhưng không thể kéo theo được nỗi bọt bèo trôi nổi của cuộc đời này ra tận mênh mông!

Đến Tuy Hòa mà không lên núi Nhạn viếng tháp Chàm, nhìn thành phố, ngắm soi Ngọc Lãng, sông
Tháp Nhạn
Đà Rằng, đồng ruộng, xóm làng thì xem như chưa đến đây bao giờ! Ngọn tháp sừng sững lạnh lùng như  thiên thu vọng ngóng hình ảnh giống dân Hời, dõi tìm mà chẳng thấy thành quách lâu đài cung điện nguy nga của Chiêm hoàng thời vàng son vang bóng, ngoài một màu xanh rừng núi và trời cao thăm thẳm, như cố nuốt trôi hận diệt vong. Lặng nhìn dòng sông Chùa sáng chiều triều dâng con nước thuận hòa bồi đắp phù sa màu mỡ cho soi Ngoc Lãng. Nơi đây không những chỉ là thắng cảnh cho du khách thăm viếng mà còn là nơi hò hẹn của những đôi tình nhân, những mối tình học trò đầu đời và cũng là nơi để những kẻ ôm nỗi tương tư trong hồn, mà 
" Ru với gió, mơ theo trăng và thơ thẩn cùng mây... "
Đường Trần Hưng Đạo-Trung tâm thành phố
Dưới chân núi Nhạn, thị xã Tuy Hòa nằm trên bờ bắc của dòng  Đà Rằng và sông Chùa, với những con đường phố song song ngang và dọc. Thành phố đủ rộng để thấy náo nhiệt, đường Trần Hưng Đạo (đường Số Hai), hướng đông tây nối đồng ruộng với bờ biển, ngang qua chợ Tuy Hòa; đường Phủ Cũ (phủ đường cũ thời Pháp thuộc, nay là đường Phan Đình Phùng) chạy hướng bắc nam từ bờ sông Chùa đến Ninh Tịnh cắt nhau tại ngả năm là những con phố thương mại chính. Đứng trên núi Nhạn, nhìn về đông bắc có thể thấy được mái thiếc của ngôi trường trung học Nguyễn Huệ, nằm giữa đoạn đường Số Sáu (đường Nguyễn Huệ) chạy từ ga xe lửa xuống rừng dương ra bãi biển. Ngôi trường trung học đệ nhất cấp đầu tiên tại thị xã, mãi đến năm 1960, có thêm ngôi trường trung học đệ nhất và đệ nhị cấp mới, hai tầng ở cuối đường Hoàng Diệu gần chợ Tuy Hoà.

Từ trường Nguyễn Huệ cũ, đi về phía mặt trời mọc, chùa Hồ Sơn bên tay trái, trên một ngọn đồi thấp nhiều cây xanh bao quanh, được kiến trúc mỹ thuật, vào mỗi hoàng hôn văng vẳng tiếng chuông chùa điểm giờ công phu tạo nên cảnh thêm thanh tịnh. với rừng dương Ninh Tịnh, rừng dừa Mỹ Á kết thành lũy một màu
Bờ biển Tuy Hoà
xanh dọc theo bờ biển trên động cát vàng chạy dài từ cửa sông Đà Rằng lên đến tận mả Cao Biền, Gành Đỏ phía bắc xa thẳm.
“Ngó ra ngoài mả Cao Biền
Thấy đôi chim nhạn đang chuyền cành mai” (ca dao Phú yên)
Xa xa ngoài khơi, hòn Chùa nghênh ngang như một linh hải qui vĩ đại nổi lên giữa biển trấn phương đông, che chở ngư dân Mỹ Á, Mỹ Liên khi trời
Hòn Chùa ngoài khơi Mỹ Á và Long Thuỷ
giông biển động hoặc giữ cho gió lặng sóng im để dân chài được cá đầy ghe, dù cho người vợ ở nhà vẫn luôn cầu nguyện cho biển lặng sóng im để chồng bình yên trở về bến.
“Lấy chồng Phú Cốc sợ beo,
Lấy chồng Mỹ Á hồn treo cột buồm.” (ca dao Phú Yên)

Nơi góc tây bắc của thành phố, nhà ga xe lửa còn hằn nặng vết chiến tranh, hờ hững đứng im lìm bên con đường sắt chạy thẳng tắp bắc nam,
            " Những ngày nghỉ học tôi thường tới
             
Quốc lộ 1-đồng ruộng Tuy Hoà và núi Chóp Chài
Đón chuyến tàu đi đến những ga... " (Thanh Tịnh)
song song với đường xe lửa, quốc lộ một như một bờ viền phía tây thành phố mà dưới trũng kia là đồng ruộng Tuy Hòa, một con sông nhỏ phát nguyên từ dãy Trường Sơn Hòa Quang, chảy qua Phụng Nguyên, đồng Sơn Triều, đồng Đế, đồng Chùa Sàng, luồn qua cầu Ông Chừ đổ vào sông Chùa chảy ra biển.

Rời thị xã, theo quốc lộ một về phía bắc, qua khỏi sân bay trẽ trái vào phía làng Minh Đức, trèo lên Cổ Rùa, tìm lối dễ leo lên đỉnh núi Chóp Chài,
Ngọn Chóp Chài đã cao lắm bấy
Trông hủy trông hoài không thấy người thương.”(ca dao Phú Yên)
núi cao, nhiều khoảng cheo leo khó vượt, tuy nhiên nếu leo ở mặt bắc của núi thì dễ hơn, khoảng sau năm Mậu thân, quân đội xây dựng một xa lộ giao thông với đài kiểm báo thiết trí trên đỉnh, để quan sát và theo dõi hoạt đông của ghe tàu trong hải phận. Những ngày trời quang mây tạnh, từ đỉnh núi thấy rõ toàn thể thành phố, đồng ruộng, sông hồ, làng xóm của các xã Hoà Kiến, Hòa Trị, Hòa Quang, Hòa Thắng, Hòa Xuân,
Đèo Quán Cau
Hòa Thịnh v.v. Cũng có nhiều hôm mây giăng dày từ dưới lưng chừng sườn núi che khuất đỉnh. Phía tây, dãy Trường Sơn dài như không có bắt đầu và cũng bất tận, trên đó có đồn Vân Hòa cung cấp mít thơm sim ổi tươi ngọt hằng năm. Phía nam liên tỉnh lộ bảy từ quốc lộ qua cầu Ông Chừ dọc theo mương dẫn thủy qua xã Hòa Thắng, Hòa Định, Cũng Sơn đi Cheo Reo... Đi về hướng bắc, quốc lộ một sau khi qua khỏi Màng Màng, Hòa Đa Tuy An qua những ruộng rẫy thấp, xa lộ bắt đầu trườn mình lên đèo Quán Cau trong khi đường sắt chạy âm thầm dưới thung lũng.  Đường đèo Quán Cau không cao và hiểm trở lắm nhưng ngoằn ngoèo, nhuộm màu thẫm xanh rừng núi hiền hòa. Một buổi chiều, lúc 
tắt nắng hoàng hôn, dừng lại nơi đỉnh đèo, ngắm ánh trăng ngà tỏa mơ hồ lên muôn vật, rừng núi dưới kia huyền hoặc nhạt nhòa trong sương đêm tĩnh mịch lạ thường, thỉnh thoảng vài đóm đèn dầu vàng vọt hắt hiu từ một gia đình tiều phu nào đó ở mãi một góc rừng xa, làm tăng thêm vẻ tịch liêu đêm trăng rừng núi. Trên bầu trời vằng vặc muôn ngàn vì sao lấp lánh, không gian như chùng xuống đỉnh của hàng hàng lớp lớp núi rừng trùng điệp bao vây, thấy mình như nhỏ bé và chơ vơ  giữa đất trời, cô đơn như một tha nhân trở về lối cũ mà quán trọ cửa đóng then gài, dừng lại chốn này tìm chút hương rừng men đất để vực dậy tình núi sông đang ngủ say trong dạ.

Theo quốc lộ lên hướng bắc, tới Chí Thạnh, một thị trấn nhỏ người thưa thuộc quận Tuy An. Trước mặt, sau lưng là núi rừng, những hàng quán cà phê giải khát, bi da, tiệm ăn, tiệm vải, tạp hóa, xưởng mộc và một bến xe đò tạm cho khách sang xe đổi chuyến.... nối dãy dài một bên đường và chập thành góc tại ngã ba quốc lộ
Thị trấn La Hai Đồng Xuân
1 và liên tỉnh lộ 63. Từ đây đường xe lửa quẹo trái chạy song song với liên tỉnh lộ 63, từ Chí Thạnh đổ dốc đèo Thị, tiếp tục xuống dốc lên đèo, chạy quanh co qua rừng núi hoang vu, đến La Hai Đồng Xuân nơi sản xuất nhiều đường cát và đường phèn nổi tiếng.
“Tiếng đồn chợ Xổm nhiều khoai
Đất Đỏ nhiều bắp,La Hai nhiều đường” (ca dao Phú Yên)
Dừng chân thăm phố núi không sương mù với ga xe lửa La Hai trong cảnh tịch liêu, ăn bữa cơm nơi quán nhỏ rồi tiếp tục đi Phước Lãnh, địa danh cuối cùng của Đồng Xuân Phú Yên trước khi vào Vân Canh Bình Định. Xin vẫy tay chào để người tiếp tục hành trình về đất Tây Sơn nơi có thành Đồ Bàn, đế đô Chiêm quốc xưa, nay chỉ còn là những hoang tàn đổ nát ngậm ngùi. Một lần xin biệt ly!
Bình minh trên Đầm Ô Loan

Trở lại Chí Thạnh, bước vào quán giải khát, cô hàng nước dịu dàng mời khách với nụ cười thật xinh, giọng nói nhỏ nhẹ ngọt ngào, êm ái như lời người em gái chào đón người anh từ xa vạn lý hồi hương.

Nhìn những hạt nước đọng ở thành ly sinh tố mát lạnh trên tay, như những giọt sương long lanh, mùi thơm của trái cây thoang thoảng như hương của mầm sống vươn lên trên quê hương, hớp một ngụm nhỏ, rót hương vị đậm đà vào lòng nhủ rằng mật ngọt của đất mẹ đang thấm vào tâm can. Trước  quán, tiếp nối những chuyến xe đò địa phương hay xuyên Việt tạm ngừng trong giây lát để khách lên xuống đổi chuyến hoặc giải lao, hầu hết trên gương mặt mọi người đều hớn hở, hay có chăng, thoáng hiện chút âu lo và mệt mỏi, có lẽ vì không quen với nắng miền Trung và gió bụi đường xa, hoặc nhà còn xa hành trình còn dài. Những xôn xao của lời chào câu hỏi, tiếng réo gọi, reo vui, những giọng phàn nàn chen lẫn với tiếng cười rộn rã tạo nên hoạt cảnh nhộn nhịp trong không khí nhân hòa thân ái quen thuộc. Ở đây mỗi ngày gặp gỡ biết bao nhiêu khuôn mặt, trao đổi biết bao nhiêu lời ân tình, nghe được lắm điều phải, học hỏi nhiều điều hay. Từ mọi nẻo gặp gỡ tại nơi này rồi chia xa mỗi người về mỗi hướng kẻ xuống nam, người lên bắc kẻ về tây, canh cánh mang theo tình người cùng chung một đất nước, tình đồng bào, nếu không được như tình anh em một mẹ sinh ra thì ít ra có cái gì kết hợp lại với nhau: tình người, tình huynh đệ cùng một mẹ Âu Cơ chung một mái nhà Việt Nam!

Ly nước đã cạn trên tay nhưng lòng tràn đầy hương vị ngọt ngào của gặp gỡ hôm nay. Chợt nhớ rằng cuộc hành trình còn dang dở, giã từ cô hàng có mái tóc mềm mại và đôi mắt nhung nai tơ đang nhoẻn nụ cười xinh xắn thay lời chào trong giây phút luyến lưu, như muốn trao gởi chút tình còn e ấp.
" Người về có nhớ ta chăng
 ta về ta nhớ hàm răng người cười "  (ca dao)

Quốc lộ một chạy qua những đèo, dốc, những rừng, bãi, lúc quanh co lưng chừng triền núi, khi lang thang dưới thung lũng sâu, ngang qua những đàn bò thảnh thơi gặm cỏ trên bờ ruộng hoa màu tốt tươi, thỉnh thoảng ngang qua vài khóm nhà dọc hai bên đường gần những rẫy sắn nương khoai.

Không mấy chốc đến Chợ Huyện, khu phố chợ nhỏ cạnh ngả ba Ngân Sơn quốc lộ, ngôi chợ bán buôn sầm uất, tiện nghi và thịnh vượng cho địa phương, mỗi buổi sáng, náo nhiệt với tiệm tạp hoá, quán cơm cháo phở, bánh ngọt, cà phê, nước mía, sinh tố trái cây...bình dân nhưng hấp dẫn.
Đường đi Sông Cầu

Từ đây theo con đường làng thẳng xuống Đăng, một làng đánh cá bên bờ đầm Ô Loan. Vào những đêm thanh, biển lặng sóng im, nhìn về phía cửa biển những đèn trên các ngư thuyền thành hàng dài lung linh như hội hoa đăng trên nước, hừng đông hôm sau, tiếng ốc tù và vẳng lên báo hiệu thuyền về, có nhiều “rẩu” đã đứng chờ trên bến, hàng trăm ghe về đầy cá cũng vừa kịp phiên chợ sáng.
Qua khỏi Chợ Huyện,
“An Dân, Xuân Thọ chia hai
Chỉ vì cái đỉnh Xuân Đài làm ranh” (Ca dao Phú Yên)
Bình minh trên vịnh Xuân Đài (Sông Cầu)
đổ con dốc ngắn, qua cầu, vào thành phố Sông Cầu nằm ngay trên bờ vịnh Xuân Đài thơ mộng, với những rừng dừa tàu lá nghiêng nghiêng như những cánh phượng phất phơ khi gió nhẹ, làm lung linh những tia nắng bình minh. Chợ Sông Cầu và bến xe đò nằm sát cạnh quốc lộ, ngôi chợ rộng lớn, họp mỗi ngày từ sáng sớm, khách từ các xã đổ về bán buôn nhộn nhịp.
         Chợ Sông Cầu một tháng sáu phiên,
Anh đi khổng đặng, gửi lời nguyền thăm em.” (Ca dao Phú Yên)
Trên bờ vịnh Xuân Đài là những cánh rừng dừa bạt ngàn
Khi hoàng hôn xuống, có người ra ngồi tựa gốc dừa trên bãi cát trắng, mơ màng trông về xa xôi chờ ngắm trăng lên, hay thả hồn mình bay bổng dõi theo bóng tình quân đang rong ruổi ngoài dặm xa, vô tình để làn gió nhẹ hôn lên má, em không nghe tiếng gió reo vi vu qua cánh lá dừa xanh lả lơi như đuôi phượng hoàng, em đang nhìn trời, nhìn những giải mây giăng, nhưng không ngừng lại nơi cõi thênh thang đó, mà tìm kiếm bóng Ngưu Lang chờ Chức Nữ đâu đấy bên bờ Ngân hà, đợi ô thước bắc cầu mùa mưa ngâu tháng bảy, để tự ví mình, mà thương mình, mà xót xa cho những hệ lụy của cuộc đời dẫy đầy những biệt ly thương nhớ. Chờ chưa thấy bình an vĩnh cửu, tuổi xuân mới đó, chưa ướm trọn ước mơ, đã phải chen vai lam lũ với đời, cho hình hài già trước tuổi, xuân sắc phai nhạt khi mái tóc vừa quá vai.
“Dừa xanh trên bến Sông Cầu
Dừa bao nhiêu trái dạ em sầu bấy nhiêu” (ca dao Phú Yên)
Hay em hồi tưởng ngày còn kẹp tóc nắn nót viết từng dòng lưu bút ngày xanh, gói ghém tâm tư nhớ thầy nhớ bạn, nhớ những đêm cùng quây quần bên đống lửa hồng của những cuộc trại hè, cùng kịch ca múa hát chia sẻ tuổi xuân vô tư lự rạng rỡ đang lên như búp măng non vừa trồi lên với đất trời; Nhớ những hàng phượng đỏ sân trường với tiếng ve sầu mỗi khi hè đến nức nở điệu buồn biệt ly, tiễn người rời sách vở học trò mang theo kỷ niệm trở về miền quê xa; từ dạo ấy xa trường, xa bạn, xa người yêu tuổi ngọc:
" Từng kỷ niệm ấu thơ thành sương khói
 Em về đâu...
 Anh về đâu...
 Không còn gì ôi gió thoảng phù du.” (Huy Lực)

Trăng mười sáu còn thẹn thùng lấp ló đàng sau dãy núi thấp chạy dài ra cửa vịnh, rụt rè gieo chút sáng vàng xuống mặt biển, mới đầu như màn lụa mỏng gờn gợn nhấp nhô, sẫm dần sang hai bên, mặt nước dưới chân núi vẫn còn bị che tối thẫm. Bên trong những rừng dừa um tùm, ánh đèn nhà ai le lói xa xa như những con đom đóm lạc loài. Biển chiều nay êm ả lắm, lớp lớp những con sóng nhỏ bạc đầu phản chiếu ánh trăng rì rào xô tràn lên bãi rồi rút nhanh ra xa, bôi xóa hết vết chân lún trên cát của đôi tình nhân tay trong tay vừa thong thả đi qua, trả lại bãi cát ướt sũng và phẳng phiu.

Trăng lên dần, cảnh vật chìm dưới ánh trăng vàng mênh mông mơ hồ, từ biển xa ngoài kia làn gió mát mang theo chút hơi nước đưa vào làm không gian dịu xuống,
 “ Biển chiều vắng tiếng nhân ngư,
 Non xanh tha thiết, trời thu rợi sầu
 Nhớ thương bạc nửa mái đầu,
 Lòng nương quán khách nghe màu tà huân... "
Hồ Dzếnh
nghe từ đáy sâu tâm hồn những thương nhớ, lưu luyến những kỷ niệm quá khứ xa vời dù đơn sơ mộc mạc, phía cuối bãi những em bé tung tăng nô đùa chung quanh các anh chị ngồi cạnh nhau chuyên trò cười khúc khích, gần đó, mấy đứa cháu đặt năm ba chiếc ghế mây hàng dài cho ông bà hoặc cha mẹ chúng ngồi hóng gió, để họ quên đi nỗi mệt nhọc của công việc suốt ngày qua.
Ghẹ Sông Cầu

Dưới thời Pháp thuộc, Sông Cầu đã từng là tỉnh lỵ của Phú Yên. Thành phố biển sơn thanh thuỷ tú, sau lưng là núi non hùng vĩ, trước mặt là vịnh Xuân Đài trong xanh, có biển có đảo ngoài xa, có dòng Tam giang, có thuyền có bến, giống như Bồng Sơn, Tam Quan, dừa Sông Cầu hàng hàng lớp lớp bạt ngàn, quốc lộ một chạy xuyên qua trung tâm thành phố, nơi vãng lai của khách phương xa nam bắc. Tuy không đông lắm, nhưng người Sông Cầu hiền hòa và hiếu khách.
“Ngõ vô Vũng Lắm, Sông Cầu
Cù lao Ông Xá đứng hầu ngoài khơi” (ca dao )
Cua huỳnh đế
Đến Sông Cầu phải thưởng thức món đặc sản ghẹ và sò huyết, sò huyết đầm Ô Loan ngon nổi tiếng, ngoài ra, vào mùa cá thu, người địa phương đãi khách món gỏi cá thu hấp cuốn bánh tráng với rau sống, hoặc bánh tráng nướng xúc gỏi cá thu, hương vị vừa thơm vừa dòn của bánh tráng nướng, vừa mặn mà thấm giọng của gỏi cá thu
“Về Trung ăn ghẹ Sông Cầu
Ăn cua huỳnh đế, ăn sò đầm Ô Loan” (ca dao Phú Yên)
Uống nước dừa xiêm tươi với cơm dừa non mỏng như tờ lụa ngọt thanh thơm phức không cần thêm đá lạnh cũng cảm thấy mát tận đáy lòng, bên cạnh đó còn có dừa lửa non, hương vị cũng không
Sò huyết đầm Ô Loan
kém xa mấy. Trước 1975, trong thời chiến tranh ly loạn, bận hành quân bảo quốc an dân nơi biên cương, tiền đồn heo hút, biển đảo xa khơi, có mấy khi về quê nghỉ phép để được 
“Uống nước dừa như nước mắt quê hương…”

Qua khỏi Sông Cầu một quãng đường không xa lắm, có những quán ăn nằm sâu bên trong vườn dừa, khách thưởng thức món gà nướng thơm ngon đặc biệt, ngon đến nỗi cứ muốn ăn thêm, uống vài chung rượu trắng nồng cay, cảm thấy hương vị
Nước dừa tươi mát
đậm đà hơn. Chia sẻ chuyện đời của phố thị, chuyện làng xóm láng giềng, của anh em và bạn hữu, vơi được nỗi nhọc nhằn của những ngày nắng dãi mưa dầu, những tháng năm xuôi ngược mà tuổi đời chồng chất phong trần. Nghe vạn sầu cay mắt, đếm trên đầu ngón tay, bạn bè đứa mất đứa còn, đứa đi đứa ở, đứa lang bạc phiêu linh, đứa thành công “hồ hỡi”, đứa thất bại não nề. Nụ cười gượng hôm nay vá víu những bờ vui loang lổ không trọn vẹn, lời tình tự bây giờ không khoả lấp được những hố đắng cay, rồi mai này lại giã từ, đi về phương trời xa xôi, mang theo nỗi tiếc
Gà nướng lửa than Sông Cầu
thương ray rứt, giữ trong lòng những hình ảnh đầu đời yêu dấu một thời mà dấu yêu một đời, cứ để cho ngày tháng phôi pha đi. Những hình ảnh như bóng dã tràng trên cát khi con nước ròng dưới trăng khuya, lúc hiện lúc thoắt trốn biến trong hang tối để sóng thời gian xóa hết vết chân, rồi ngày mai thức dậy khi mặt trời lên, lại thấy mình trơ trọi lêu bêu trên cồn cát thấp cuộc đời, bên cạnh những vỏ ốc tha nhân trơ trẽn và những rong rêu vật chất dập vùi, như bọt bèo rơi rớt giữa bãi biển xã hội dẫy đầy hất hủi phong ba.

Mải mê với những mâu thuẫn của tình đời và quê
Trái dừa non tươi
hương, nên quên rằng đã đi qua một quãng đường dài. Hai bên xa lộ tiếp nối những rừng dừa xanh đầy trái, thấp thoáng bên trong những ngôi nhà gạch cũ kỹ rêu phong, thỉnh thoảng vài mái tranh ẩn hiện khiêm nhường như những quân tử thời xưa đứng giữa đời mặc cho thời thế bao vây, quanh nhà những đàn gà đang bươi tìm thức ăn khi lũ gà con tung tăng tứ tán. Cách từng quãng, những quải dừa tươi chất đống bên vệ đường, chờ xe đến chở ra kịp chợ phiên, bên cạnh vài cô gái má hây hây hồng nở nụ cười duyên dáng trên môi, họ là những khách buôn đang chuyện trò vui vẻ trong dáng vẻ
Muối
bâng khuâng, đợi chờ. Thỉnh thoảng một chiếc xe đò ngừng lại để đón hay đổ khách rồi vội vàng lăn bánh, bỏ lại đàng sau lớp khói mờ.

Qua Lệ Uyên, Trung Trinh, quốc lộ chạy cung cung thênh thang, nhìn phía trước trông giống như một bờ đê ngăn biển nước, sóng vỗ bập bùng tung tóe bọt trắng xoá vào những bờ bãi, gành đá lởm chởm. Xa khơi những cánh buồm lộng gió đưa ngư ông vào biển lúc trời quang mây tạnh, những cánh hải âu bay lượn khi la đà lúc vút lên không rồi đâm thẳng xuống nước như chiếc lao, lặn trong
Ruộng muối
nước mươi giây, lại ngoi lên như chiếc bong bóng, nuốt vội vàng con mồi vừa bắt được. Bên này đường, những ruộng muối băng trắng hếu, vài nơi muối được cào vun thành đống lớn, những hạt muối lóng lánh phản chiếu ánh mặt trời như những viên kim cương lớn, có những ruộng bằng phẳng nước lóng trong veo, nơi này xả ra, chỗ kia lấy vào. Những phu nam nữ làn da rám nắng, quảy những gánh muối nặng kìn kịt, thoăn thoắt bước nhanh trong gió biển lồng lộng, đưa hơi muối nồng mặn vào tận từng tế bào của da thịt.

Đầm Cù Mông
Đường mỗi lúc thêm quang đãng, trước mặt là rặng Cù Mông, đầm Cù Mông bên tay mặt và bên tay trái là chân núi lùi xa xa vào bên trong. Tạm dừng chân quán nhỏ bên đường, chọn chiếc bàn thấp trên nền xi măng cạnh bờ nước, ngồi ngắm những chú hải âu cắt cớ bay vèo trước mặt rồi lượn vòng trở lại, vút lên cao rồi thả cánh bằng đáp nhẹ lên mặt nước như chiếc lá bàng rụng giữa thu,  nhìn những chàng thủy thủ có cánh nô đùa, nhớ đời thủy thủ, lúc hải hành xuyên đại dương, khi gặp hải âu bay trên biển hoặc đậu trên tấm ván trôi, biết rằng có hải đảo hoặc đất liền gần đó. Tại quán này
Đèo Cù Mông
ngoài khách thường đến vào những chiều nắng nhạt cuối tuần, có những khách vô chừng dừng chân nghỉ vài mươi phút trước khi vượt đèo Cù Mông
  rời Phú Yên hay vừa xuống đèo từ Bình Định.
“Cá ngon là cá Cù Mông
Gạo ngon là gạo ở đồng Phú Dương” (ca dao Phú Yên)

Cù Mông, đường đèo ngoằn ngoèo như con rắn khổng lồ, trườn mình băng ngang rặng Cù Mông từ dãy Trường Sơn đâm ra biển, là ranh giới chia đôi vùng đất gầy, bên này là Sông Cầu Phú Yên và bên kia  đèo là Qui Nhơn Bình Định. Nơi gặp gỡ để rồi lại chia tay, kẻ rong ruổi lên bắc người tiếp nối hành trình xuống nam, biệt ly nào cũng buồn man mác, thương nhớ nào cũng canh cánh xót xa. Cù Mông vẫn là tri kỷ muôn thuở cho mỗi viễn khách lạc bước qua đây, dù ngày nắng hay mưa, dù đêm trăng sáng hay tối mịt mùng, Cù Mông vẫn âm thầm chào đón hoặc im lặng tiễn đưa như rừng không bỏ biển, như chim chẳng xa ngàn. Khách đến rồi đi, chỉ lưu lại nơi này dấu gót lãng du như vết chân chim trên sa mạc.

Hẹn một ngày nào cùng về thăm quê em bên kia đèo Cù Mông như đã đưa em viếng khắp Phú Yên này khi cố hương bừng dậy đón cố nhân, mình sẽ đi qua những nẻo đường trải đầy chân tình quê hương mộc mạc yêu dấu,
“ Biệt-ly, nhớ nhung từ đây! ..” (Đoàn-Chuẩn)
xin chia tay để người tiếp nối hành trình xuyên Việt dài heo hút, mang theo tâm tình của cuộc hạnh ngộ hôm nay. 

Từ đỉnh đèo, những áng mây bàng bạc giăng thật gần, vật vờ như những giải lụa lang thang, dưới kia thung lũng buồn, thoang thoảng tiếng gió rì rào man mác, như lời tâm tình của sơn nữ thì thào trong bóng chiều sơn khê. Nhìn theo, người đã đi khuất xa nơi cuối đèo, người đi cứ đi.
“ Đưa người, ta không đưa qua sông,
 Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
 Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
 Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”  (Thâm Tâm)
Người đi xa rồi, tôi vẫn đứng trông theo như rừng và mây chia xa. Nhớ người, nhớ nụ cười với ánh mắt long lanh, nhớ những lời ngọt ngào thân ái, mang nỗi vấn vương trở lại phố xưa. Nghe lòng buồn lên len lén, mơ hồ như bước chân du mục lầm lũi quay về đồng cỏ dưới mưa giăng nhẹ ngoài mênh mông.
            " Có phải sầu vạn cổ
 Chất trong hồn chiều nay! “(Lưu trọng Nguyễn)
           
Phú Yên tôi đó, dù có đèo Cù Mông hay Đèo Cả, mà đã không ngăn cản được giặc từ phương bắc tràn vào đàn áp, tàn sát đồng bào tôi và làm hoen ố sử xanh đời đời khắc ghi công lao những anh hùng và tiền nhân đã đổ biết bao nhiêu xương máu gầy dựng nên; hình thành xóm làng lăng miếu, từ đường, mồ mả tổ tiên; nơi mà bà con anh em ruột thịt quây quần; nơi có thầy cô, bạn bè chung dưới mái trường, có người yêu tuổi học trò, có tình chiến hữu em gái hậu phương chia sẻ gian nguy hạnh phúc, có yêu thương nhân nghĩa và đạo đức luân thường. 

Lòng bồi hồi nhớ lại thời đã qua,  thời lớn lên trong khói lửa chiến tranh, xoá gần hết phần đời của tuổi trẻ để sống trọn vẹn ý nghĩa làm người chính trên quê hương này và cho quê hương này! Ngày nay xa vời trong tầm tay với, không còn nhìn thấy, quê hương biền biệt tận cuối phương trời , chỉ nghe và đọc được sự đổi thay giả tạo phù phiếm bao trùm lên nát tan, chua chát và xót xa.
“Kỷ niệm không là gì, khi thời gian vội xóa.
Nhưng sẽ là tất cả, nếu lòng người còn ghi.” (Khuyết danh)

Thương và nhớ lắm nhưng trong lòng chỉ là hình ảnh của cố hương.
"Ôi quê hương! Ôi quê hương!
Nói sao cho xiết niềm thương nỗi lòng.” (ca dao Phú Yên)

 To Anphong

Tài liệu tham khảo:
  •       Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim  (Văn Thư Lưu Trữ mở Wikisource ) 
  •        Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Lê Văn Hưu (Bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia)
  •      Wikipedia, The Free Encyclopedia
  Hình ảnh từ Internet



No comments:

Post a Comment