to anphong
Mỗi khi nghe ai nhắc đến đất
nước tôi, đồng bào tôi, nhân văn xã hội, hay địa lý lịch sử tôi
lắng nghe mà ngậm ngùi hồi tưởng về nơi ấy. Lúc nào cũng cho quê hương mình
chỉ là một và trên hết, nhưng mình chưa làm được gì trọn vẹn cho quê hương. Mãi
đợi chờ vận nước đổi thay như một lão ăn mày thụ động, ngồi dưới cội sung già.
Cho tới bao giờ thì gió nổi sung rơi? Với một trời mặc cảm, thứ mặc cảm nhỏ
nhen cứ lảng vảng như bóng ma theo cuộc đời.
Đáng cúi mặt đừng phải thấy
cái cá nhân đáng ghét, cho cái tôi nó tự hủy để tâm hồn thanh thản, cho bản ngã
trở về lúc chi sơ và nội tại vẫn tự tại, cho ngày tháng thư thả đi qua êm ả như
chuỗi ngày xưakhi còn tuổi học trò. Tự ngã thường là ích kỷ, kiêu căng kỳ thị
quái dị, chìm sâu vào vùng tự kỷ ám thị, nhiều lúc bất cần đời nhưng lại cần
người, một đối tượng, một môi trường để phô trương cái ta ngờ nghệch oái oăm
quái ác. Có nhìn lên nhưng không phải là hướng thượng, nhìn khắp bốn phương
nhưng mệt mỏi ngoi ngóp nhận thức khiêm nhường trong cái mênh mông của vũ trụ,
cái sâu thẳm của càn khôn. Nghe thì hiểu nhưng lại không nhớ, không bắt chước
được cái hay cái đẹp, cái tài ba của tiền bối, của trưởng thượng. Chính tự ngã
đã khép kín cá nhân vào một vuông góc cỏn con giữa một bầu trời lớn, trói chặc
cuộc đời vào một không gian nhỏ hẹp để mặt trời đạo nghĩa nhân bản đốt cháy,
gậm nhấm từng tế bào tim óc làm biến thái trí tri, xua đuổi nghĩa và tình dang
xa, làm vơi cạn dần từng tuyến thở phế nang cuộc đời, làm cho dư ảnh của gió
núi mây ngàn quê hương mỗi ngày một nhạt nhòa trong ký ức. Thôi thì đừng để ý
đến những xót xa, những suy tư quanh quẩn, những nhớ thương quay quắc, mà tìm
về một nơi chốn bình yên nào đó, tự dỗ dành an ủi tìm quên. Mấy ai nơi đất
khách không có những giây phút chạnh lòng nhớ về quê hương, một giang sơn gấm
vóc bên bờ Thái Bình xa thẳm, nơi đó có cha mẹ, anh em, bà con và bạn bè, xóm
làng với lũy tre xanh, mái đình cổ kính rêu phong là những kỷ niệm đã hun đúc
mình khôn lớn thành người....
Ôn lại đoạn đời.
Chưa tới trăm năm, là chứng nhân cho hai lần tị nạn lánh nạn, 54
bỏ Bắc vô Nam, 75 biệt xứ. Những năm tháng qua, chất ngất đắng cay, mang tiếc
nuối một quá khứ oai hùng và chính nghĩa, mong chờ khải hoàn trên non sông cùng
hy vọng thanh bình trở lại với đất nước và dân tộc mến yêu.
Ba mươi tháng tư, ngày của
muôn vạn quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã và đang xây dựng một miền Nam
Việt Nam phồn vinh, dân chủ, đaọ đức nhân bản. Đã và đang anh dũng chiến đấu
bảo vệ đất nước khi mà chiến thắng cuối cùng trong tầm tay, nhưng bị bắt buộc
phải hạ súng nhường sự chiến thắng đó cho kẻ thù, để rồi quân dân cán chính
chiến sĩ quốc gia lần lượt bị lùa vào những nhà tù vĩ đại, những trại trừng
giới dã man. Tư cách làm người bị tước đoạt và phải lặng câm hứng chịu sự ngược
đãi và chà dạp đầy ải hành hạ khổ nhục như những con thú hoang trong cũi sắt.
Đón nhận những cực hình, suốt những năm năm, mười năm, mười lăm năm, mười bảy
năm, hay ba mươi năm, hoặc đã ngậm nỗi hờn căm gục ngã tại lao tù nơi đèo heo
hút gió, giữa rừng thiêng nước độc, vĩnh viễn không còn gặp lại được mẹ già vợ
yếu con thơ, hay đàn em dại mà thán oán ngập trời cao!
“...Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ…”
(Nguyễn
Khuyến)
Ba mươi tháng tư, một chứng
sử bất dịch viết bằng danh dự, mồ hôi, nước mắt và thịt da xương máu của hàng
triệu sinh linh, hàng muôn vạn chiến sĩ anh hùng,
lưu lại cho những thế hệ sau phải suy ngẫm, đau xót cho cha ông đã cưu mang nỗi uất hận khổ đau,
nỗi oan
khiên ngút ngàn. lưu lại cho những thế hệ sau phải suy ngẫm, đau xót cho cha ông đã cưu mang nỗi uất hận khổ đau,
Hãy lấy thời khoảng ba mươi
tháng tư bảy lăm làm dấu mốc tính thời gian tan tác, tù đày và lưu vong.
Hơn bốn mươi măm rồi đó, gần
nửa thế kỷ xót xa, tủi hận. Cứ vào mỗi đầu tháng Tư, giỗ Tổ Hùng Vương, ôn cố
tri tân, nhắc nhở công ơn khai sáng và dựng nước, đến cuối tháng ngậm ngùi kỷ
niệm ngày quốc hận, ngày con dân Việt miền Nam bắt đầu cuộc ly hương, bỏ làng
bỏ xóm, bỏ phố phường, rời nơi chôn nhau cắt rốn quê cha xa đất tổ, và cũng từ
đó, đàn con cháu Lạc Hồng hàng hàng lớp lớp vượt biên vượt biển lánh nạn Việt
cộng. Hàng trăm ngàn người vùi thây giữa đại dương ngập sóng, hay giữa đại ngàn
đầy dẫy yêu ma. Hàng triệu người may mắn sống sót lưu lạc khắp năm châu, gầy
dựng lại từ đầu cuộc sống mới trong hào quang tự do dân chủ nhân quyền.
Tổ
quốc ơi, ngót mấy mươi năm, dù một phần đời phải trải qua những nhục nhằn, nổi
trôi ly hương nơi đất khách, và ngay cả trên chính quê hương mình, thoảng nghe
dư âm của người xưa...
“… Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ! “
(Nguyễn
Khuyến)
dù cay đắng ngụp lặn lưu vong, dù phải làm người mất
quê hương, đàn lạc Việt này vẫn không quên nguồn cội, vẫn luôn tưởng nhớ về cố
quốc và luôn mơ ước một ngày cùng nhau thắp sáng ngọn nến đền Hùng, tìm lại vết
tích Thăng Long của ngàn năm văn vật mà tưởng nhớ tiền nhân.
“...Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền
cũ lâu đài bóng tịch dương”
(Bà
Huyện Thanh Quan)
Dựng lại Đàn Nam Giao để tế lễ tạ ơn trời đất, vinh
danh tất cả anh hùng liệt nữ đã dâng hiến đời mình cho bờ cõi vẹn toàn, cho
giang sơn cẩm tú, cho dân tộc trường tồn. Mở rộng Ngọ Môn, Điện Thái Hoà để con
Lạc cháu Hồng tựu về chiêm ngưỡng, nhớ thuở vàng son dân an quốc thái. Xây lại
khải hoàn môn trùng tu Dinh Độc Lập để cho Sài Gòn muôn đời vẫn là linh địa,
vẫn là thủ đô, vẫn là hòn ngọc viễn đông. Con cháu này vẫn còn nặng lòng với quê
hương, vẫn son sắt với Quốc Gia Việt Nam mến yêu.
to anphong
.
No comments:
Post a Comment