ptmai
“ Làng quê một bước càng ngao ngán,
Mấy kẻ tình
chung có thấu là? …”
Bà Huyện Thanh Quan
Mưa bắt đầu rơi lác đác, chấm lóm đóm như những cánh hoa vương vãi trên mặt đất dưới bầu
trời chiều nhiều mây sẫm đục và ướt lạnh, cuồn cuộn phủ kín dần xuống lưng
chừng sườn Trường Sơn phía tây của những ngày mới vào đông, báo hiệu một cơn
mưa nguồn sẽ tuôn nước dữ dội trong vài giờ sắp tới. Chỉ một đêm thôi,
nước lũ tràn về ngập trắng đồng ruộng và làng xóm từ bờ tây quốc lộ trải rộng
tới Hòa Kiến, Hòa Quang, Hòa Thắng và bao vây Hòa Trị
như một quần đảo, thấp
thoáng những mái nhà tranh đàng sau lũy tre xanh gục ngọn đong đưa theo từng
cơn gió giật phũ phàng giữa biển nước mênh mông…
Sau vụ gặt mùa tháng tám vừa xong,
lúa khô ráo được chứa vào bồ lớn trên gác, trong lẫm hay trên bộ ván gõ kê cao
giữa nhà để tránh bị ngập khi nước lụt vào nhà. Nông dân nghỉ ngơi để chuẩn bị
làm mùa tháng ba, cũng là lúc trời bắt đầu vào mùa mưa bão, gió bấc mưa phùn
ướt lạnh căm căm...
Có năm mưa bão tới sớm hơn, mưa
nhiều hơn, đến nỗi nhiều đám ruộng lúa vừa chín trễ bị ngã rạp, nước bắt đầu
ngập, dân quê vội vàng gặt chạy lụt trước khi bị hư hại. Không có được ngày
nắng ráo để phơi lúa vừa mới gặt xong, phải đổ banh tràn trên hiên nhà cho ráo,
sợ ủ lâu sẽ lên mộng, đến khi lúa được phơi khô, xay ra hạt gạo nát không còn
ngon cơm. Mây xám xịt nặng trĩu, giăng thật thấp, che khuất mặt trời, cảnh vật
sũng ướt tiêu điều, buồn tênh. Trời vừa tạnh rồi lại đổ mưa, lắm khi mưa rả rích triền miên,
mưa dầm dề, như trút nước, như “cầm chĩnh mà đổ,” rền vang giông gió.
Bão lũ đọa
đày dân quê tôi miền Trung đã nghèo còn thêm tơi tả. Thường thì không
tránh khỏi mưa bão lụt nặng vào khoảng 23 tháng mười âm lịch.
“… Gió bấc lạnh lùng thổi vào
mái rạ,
Làng tôi nghèo gió mưa tơi tả,
Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi …” (Văn
Phụng)
Nhiều năm ngoài
thiên tai hàng chục trận mưa bão hung hăng và dữ dội, thổi đùa ngói bay tranh,
bung cửa sập nhà, cây cối tróc gốc bật rễ ngã đổ ngổn ngang, hoa màu tan hoang,
nước lũ từ thượng nguồn tràn về khủng khiếp; còn bị bồi thêm “nhân tai” do
“nhân tài” siêu “đỉnh cao trí tuệ” của chế độ “khẩn trương” xả lũ, , ngoài
những đập thủy điện “hoành tráng” sông Hinh, sông Ba Hạ, sông K’rông H’năng,
sông La Giêng .v.v…còn có thêm 5 đập thủy điện công suất nhỏ cùng một tỉnh. Khi
có mưa bão thì “nhà nước” phối hợp với thiên tai “đột xuất” cho các hồ thủy
điện đồng loạt xả lũ không loan báo, không tuân theo qui trình, ngày 4 và 5
tháng 11,2016, chỉ riêng đập thủy điện sông Ba hạ xả lũ với công suất 10,400
thước khối nước/giây làm người dân Tuy hòa trở tay không kịp! Họ xả lũ
mục đích
chỉ để bảo vệ đập, không phải bảo vệ dân, làm gia tăng cường độ cuồng thủy lưu
lũ tràn khủng khiếp, tạo nên “đại hồng thủy” ào ạt kinh hoàng cuốn trôi nhân
mạng, gia súc, nhà cửa, tài sản của dân nghèo khốn nạn ra biển. “Lũ chồng lũ,
người dân phải gồng mình chống “lũ kép”- thiên tai và nhân tai. bao
nhiêu công lao mà dân quê tôi dành dụm cả đời, không những bị “quản lý” cướp
bóc, bòn rút mà còn bị bão xoáy lũ tràn tàn phá xác xơ mất trắng hãi hùng chỉ
trong phút chốc... Những tai ương sờ sờ trước mắt, dân địa phương, dân trong
tỉnh đã thấy và biết đã phải hứng chịu, dân trên toàn quốc, trên khắp thế
giới đã ngậm ngùi xót thương cho dân Trung Việt.
Thêm vào đó, "chủ đầu tư thủy điện thiếu hiểu biết về vận hành hồ chứa. Trong khi đó, chính những người này trực tiếp quyết định phương án giữ hay xả nước.
Ấy vậy mà ông đoản tri khiếm thị Nguyễn
Bách Phúc nhân danh tiến sĩ, chủ tịch hội tư vấn khoa học công nghệ và quản lý
HASCON tại Sài gòn cho rằng “thiếu cơ sở khoa học để kết tội thủy điện,
thủy điện không sinh nước sao gây lụt được? "lũ chồng lũ” chỉ xảy ra
nếu hồ thủy điện bị vỡ. Nhưng hồ bị vỡ và gây ra thảm họa là các hồ của công
trình thủy điện lớn. Còn mấy cái hồ của các nhà máy thủy điện ở miền Trung
thuộc loại nhỏ, nếu có vỡ cũng chẳng gây ra thêm ảnh hưởng gì đáng kể! ... .lũ
lớn gây thiệt hại đâu phải do hồ thủy điện xả gây ra. …”
dân kêu gào “cứu lúa là cứu dân” “Nhà nước” làm ngơ, “cứu thủy
điện không cần cứu lúa” dân được tự do sống kiếp lầm than!
Mùa mưa đến, nón lá, nón Gò Găng và áo tơi chập bằng lá kè được dùng nhiều ở thôn quê, che mưa ngăn lạnh tuyệt vời, trẻ mục đồng, người nông phu mang áo tơi ra ngoài trông như những con bồ nông lầm lũi trong mưa, hình ảnh mộc mạc và tiêu biểu nét độc đáo của người dân quê.
Mùa mưa đến, nón lá, nón Gò Găng và áo tơi chập bằng lá kè được dùng nhiều ở thôn quê, che mưa ngăn lạnh tuyệt vời, trẻ mục đồng, người nông phu mang áo tơi ra ngoài trông như những con bồ nông lầm lũi trong mưa, hình ảnh mộc mạc và tiêu biểu nét độc đáo của người dân quê
Quê hương tôi bên bờ biển Đông lai láng, núi rừng trùng điệp bao vây ba phía, ảnh hưởng khí hậu đại dương nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa. Có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa nắng từ tháng 1 đến tháng 8. Đồng ruộng mới ngày nào còn ngập lúa chín vàng, bây giờ vào mùa mưa như một thung lũng sũng nước. Những con cò trắng dò dẫm bên đàn trâu bì bõm trong làn nước bạc[1] lội tìm từng nhúm cỏ nổi bập bềnh, thỉnh thoảng ngoi mình sâu
“Quê em nghèo lắm ai ơi
Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn...
Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm!
Khiến đau thương thấm tràn,” ( Phạm Đình Chương) Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm!
Mùa mưa đến, nón lá, nón Gò Găng và áo tơi chập bằng lá kè được dùng nhiều ở thôn quê, che mưa ngăn lạnh tuyệt vời, trẻ mục đồng, người nông phu mang áo tơi ra ngoài trông như những con bồ nông lầm lũi trong mưa, hình ảnh mộc mạc và tiêu biểu nét độc đáo của người dân quê.
Mùa mưa đến, nón lá, nón Gò Găng và áo tơi chập bằng lá kè được dùng nhiều ở thôn quê, che mưa ngăn lạnh tuyệt vời, trẻ mục đồng, người nông phu mang áo tơi ra ngoài trông như những con bồ nông lầm lũi trong mưa, hình ảnh mộc mạc và tiêu biểu nét độc đáo của người dân quê
Quê hương tôi bên bờ biển Đông lai láng, núi rừng trùng điệp bao vây ba phía, ảnh hưởng khí hậu đại dương nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa. Có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa nắng từ tháng 1 đến tháng 8. Đồng ruộng mới ngày nào còn ngập lúa chín vàng, bây giờ vào mùa mưa như một thung lũng sũng nước. Những con cò trắng dò dẫm bên đàn trâu bì bõm trong làn nước bạc[1] lội tìm từng nhúm cỏ nổi bập bềnh, thỉnh thoảng ngoi mình sâu
dưới nước, rồi
ngóc đầu lên thở khì khì, lắc đôi sừng đen sì cong vòng nhọn hoắt, tạo những lớp sóng ngắn ào ạt nhấp nhô, cái đuôi phe phẩy
ngoắt qua lại như xua đuổi những con sáo tinh nghịch nhảy tửng trên lưng. Nơi gò
cao, bầy bò thản nhiên từng bước gặm cỏ ướt; đàn vịt hàng ngàn con trong rào
mành chắn ở phía cuối trảng, mỗi khi có ai đi ngang qua, giật mình kêu quàng
quạc chạy rần rậc dồn xa về phía góc chuồng sát mé nước. Trong chòi tranh xiêu
vẹo, anh chăn vịt quấn mình giữa chiếc chiếu lác cũ sờn bìa gãy góc ôm giấc ngủ
vùi mặc kệ cho gió mưa rả rích bên ngoài.
Từ thị xã đến
tận các làng xa xôi và ngược lại, những con đường cái quan đủ rộng cho xe cộ
lưu thông. Năm ba chiếc xe ngựa chở đầy khách, treo lủng lẳng những gióng thúng
rổ bên hông. Tiếng vó ngựa lọc cọc chen lẫn với tiếng bánh lăn lạch cạch của
những chiếc cộ[2]
chất đầy gạch đá hoặc cây gỗ do những con bò già kéo chậm chạp nặng nề. Nhiều
người cỡi xe đạp,
xe gắn máy mặc áo mưa nhựa gió thổi phần phậc, chen lấn nhau chạy xuôi ngược trong mưa, làm văng bùn
nước tung tóe, bấm chuông, bóp còi inh ỏi bất chấp phải trái lưu thông, cố chạy
cho mau, hơn nhau gang tấc.
Những
mùa đông xưa, mỗi chiều tan học, trên đường về, có khi phải dầm mưa, dò dẫm lội
hàng cây số trong nước lũ đang từ từ
dâng dần lên quá gối. Về tới nhà trời nhá nhem tối và nước đã ngập vào tới ngõ, những
hôm sau nghỉ học vì lụt ngập mênh mông. Lúc bấy giờ ở tuổi học trò, chưa hiểu
được nỗi nhọc nhằn, mà trái lại thích thú vui đùa trong mưa lụt, trong khi mẹ
lo lắng - lúc nào mẹ cũng lo lắng, tình thương yêu của mẹ cho con vô bờ bến,
không bao giờ giấu kín được trong lòng. “Thà mẹ cam chịu nghèo khổ nhọc nhằn, nhưng
mẹ không muốn thấy bất cứ đứa con nào của mẹ phải bị đói rách, gian nan!” Cứ
luôn miệng hối con đi tắm, thay quần áo khô, ăn miếng cơm nóng cho ấm bụng để
tránh bị nhiễm nước mà mang bệnh. Bữa ăn thật đơn sơ! Chỉ có nồi cơm gạo
lúa mới, dĩa rau lang luộc chấm nước mắm với vài con cá rô nhỏ nướng mà mẹ mới
mua hồi chiều ở trổ sa[3], hay của
những người trong làng kéo nhá[4]
đơm đó thả lờ bắt ngoài đồng; có khi chỉ được dĩa dềnh non luộc và lấy nước
luộc làm canh hoặc mớ cua, rạm
đồng nướng đâm xóc[5]
với muối và lá é; cũng có lúc cao cấp hơn được một vài trứng vịt luộc dằm mắm
tỏi ớt cay, nhưng ăn cảm thấy thơm ngon miệng, no nê và hạnh phúc vô cùng.
“ Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon, nhà khó cũng ngon..” (Ca dao)
Của không ngon, nhà khó cũng ngon..” (Ca dao)
Cuối năm tự tay mẹ cắt may cho các
con mỗi đứa một bộ đồ mới bằng vải ta, do chính tay mẹ dệt trong năm để các con
mặc ăn Tết; mẹ giặt kỹ lưỡng rồi xếp ngay ngắn dưới gối giữ thẳng nếp, để những
ngày đầu năm, các con có áo quần mới mặc se sua với bạn bè cùng trang lứa ở
trong xóm. Đứa nào cũng mừng khấp khởi, mẹ vĩ đại nhất trên đời và các con
thương mẹ vô cùng.
Sau Tết Âm lịch trời quang mây
tạnh, nắng ráo, biển im sóng nhẹ, ngày đêm không còn nghe tiếng sóng vỗ bờ rì
rào vang vọng đến tận vùng quê xa nữa. Gió từ biển Đông thổi vào hiu hiu mát,
cây cối bừng tỉnh sau mùa mưa bão dập vùi, mực nước sông Ba và những phụ lưu
cạn dần và hiền hòa xuôi chảy. Những cù lao, bãi cát giữa dòng và dọc theo bờ
phơi lộ hẳn lên, cỏ lau nẩy nở xanh tươi.
Trời càng ngày càng gay gắt và oi
bức, thỉnh thoảng có vài cơn mưa rào làm cho cỏ cây có được chút sinh khí thoi
thóp với đất trời; lúc mà từng bầy sơn ca từ đồng ruộng bay về ríu rít trong
nắng hanh sau mùa lúa chín. Những chim dồng dộc họp thành đàn kết tổ tòng teng
trên nhánh giống như chiếc vớ to và dày treo lưng chừng giữa hàng tre cao xanh
rậm rạp, chim chíp
bay đi về móm mồi cho lũ chim con. Ngoài đường, trong sân
trường, những cây phượng vĩ bắt đầu trỗ hoa đỏ rực và ve sầu cũng vang tiếng réo
rắc báo hiệu mùa tan trường đến, mùa của tuổi trẻ nao nức và xao xuyến. Gió
cũng đã đổi chiều, mùa gió nam từ lục địa thổi ra biển mang theo hơi nóng rang
rốc trong tiết tháng 6 tháng 7 âm lịch. Mùa nắng khô kéo dài cho tới khoảng
tháng 8 âm lịch hằng năm.
Ở thôn quê, cả gia đình chung dưới
mái nhà tranh vách đất, gió đêm lùa vi vu qua phên thưa,
văng vẳng tiếng côn trùng lẫn ếch nhái rỉ rả
ngoài đồng, thỉnh thoảng vài tiếng chó sủa vang vang trong xóm làm đêm trường
bớt tĩnh mịch. Khi gà bắt đầu gáy sáng, âm thanh nhộn nhịp mỗi lúc một giục
giã, tiếng người hú gọi làng trên xóm dưới, tạo không khí bình minh ngày mới rộn
rã bắt đầu bằng sinh hoạt của nông dân. Từng nhóm
người hối hả cùng nhau lên núi xa đốn củi gánh về cho gia đình hay bán cho
người trong làng hoặc ở thành phố. Kẻ thì vác cầy, lùa trâu, người dắt bò, gánh
mạ, cùng nhau ra đồng làm việc. Các bà buôn thúng bán bưng cũng gồng gánh nhanh
chân cho kịp phiên chợ sớm. Cuộc đời ngày qua ngày cùng với tháng năm, khi
chóng lúc chầy, công việc cứ trôi đều theo chu kỳ tính bằng mỗi mùa trăng. Ngày
hai bữa vui với cơm rau đạm bạc, ăn để no, không cầu kỳ, không mỹ vị xa hoa vậy
mà đâu có ai oán than bao giờ… lắm khi cái nghèo đến viếng mà cũng chẳng lưu
lại chút gì để khổ sở đắng cay hơn!
Nhà nông mỗi năm làm ruộng hai mùa tháng ba và tháng tám. Thời Việt Minh “9 năm kháng chiến,” hai cầu máng[6] của hai mương dẫn thủy nhập điền bắc và nam sông Ba từ đập Đồng cam bị Pháp ném bom sập tại sông Đồng bò và tại Phú sen, không có nước dẫn về đồng khu I (Phú lâm, Hòa thịnh) và đồng khu II (Tuy hòa) nông dân chỉ trông chờ vào mưa để cày vỡ[7] ruộng làm gieo làm dập, rồi cũng trông mong mưa để hạt giống nẩy mầm lên lúa, làm đồng kết hột, để bắp khoai sinh trái mọc củ. Trời thương, cho mưa thuận gió hòa, được mùa thì nông dân có lúa để gặt, có gạo để ăn no. Có năm, mùa tháng tám gặp mưa lụt, úng thủy, mất mùa; mùa tháng ba gặp hạn hán khô cằn nứt nẻ; con sông nhỏ chảy cạnh làng cũng cạn, không còn nước để tát lên ruộng. Nhiều nơi dân làng lập đàn cầu đảo[8], xin trời đổ mưa,
Ai qua thôn vắng, nghe sầu như mùa mưa nắng
cùng em xót dân lều tranh, chiếu manh…” ( Phạm Đình Chương)Nhà nông mỗi năm làm ruộng hai mùa tháng ba và tháng tám. Thời Việt Minh “9 năm kháng chiến,” hai cầu máng[6] của hai mương dẫn thủy nhập điền bắc và nam sông Ba từ đập Đồng cam bị Pháp ném bom sập tại sông Đồng bò và tại Phú sen, không có nước dẫn về đồng khu I (Phú lâm, Hòa thịnh) và đồng khu II (Tuy hòa) nông dân chỉ trông chờ vào mưa để cày vỡ[7] ruộng làm gieo làm dập, rồi cũng trông mong mưa để hạt giống nẩy mầm lên lúa, làm đồng kết hột, để bắp khoai sinh trái mọc củ. Trời thương, cho mưa thuận gió hòa, được mùa thì nông dân có lúa để gặt, có gạo để ăn no. Có năm, mùa tháng tám gặp mưa lụt, úng thủy, mất mùa; mùa tháng ba gặp hạn hán khô cằn nứt nẻ; con sông nhỏ chảy cạnh làng cũng cạn, không còn nước để tát lên ruộng. Nhiều nơi dân làng lập đàn cầu đảo[8], xin trời đổ mưa,
“Trông
trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông nắng, trông ngày trông đêm…” (ca dao)
Trông mưa, trông nắng, trông ngày trông đêm…” (ca dao)
Trời phụ lòng người trần gian,
nắng vẫn dai dẳng chang chang, như chẳng còn giọt
nước nào để gieo xuống cho đất đơm hoa, cho ruộng lên mạ. Mất mùa, không có
lúa, cũng chẳng nhổ được củ khoai lá cải nào mà nông dân vẫn phải è lưng đóng
đủ thuế nông nghiệp. Việt Minh tính thuế theo số lượng ruộng đất sở hữu canh
tác chứ không tính theo hoa mầu thu hoạch, mặc kệ người dân được mùa hay mất
mùa! Nhiều điền chủ không đủ lúa đủ tiền để đóng thuế phải nạp cả ruộng
đất cho “Ủy ban kháng chiến hành chánh” Việt Minh để trừ thuế cho đến khi thành
người vô sản.
Tại những làng ven biển, dân đánh
cá tự mình đóng lấy ghe, đan một vài tay lưới, một vài giàn câu giăng, đủ để tự
lực cánh sinh. Mùa biển im, trời trong gió nhẹ, ngư phủ ra khơi một vài ngày,
đánh được cá, hôm sau về bến, bán cá tươi thu được chút đỉnh tiền mua gạo nuôi
gia đình. Những khi thời tiết xấu, giông gió hay mưa bão, biển động triền miên,
không ra biển đánh cá được, tiền gạo cạn dần, đời sống của nhiều gia đình trở
nên chật vật.
Là nông dân nghèo khổ, nhiều khi
không đủ gạo ăn, không tiền để may mặc, cuộc đời gắn liền với ruộng nương sông
biển, suốt tháng quanh năm, bất kể sương sớm nắng trưa mưa chiều, không quản
ngại nhọc nhằn gian nan, luôn luôn cần cù và nhẫn nại đầu tắt mặt tối với công
việc đồng áng, câu kéo chài lưới và phấn đấu với thiên nhiên để dành sự sống
cho bản thân và cho gia đình. Những năm hạn hán mất mùa, khan hiếm lúa gạo,
phải lên tận núi cao ngoài việc đốn củi, còn tìm đào những củ khoai nầng[9], củ tóc
tiên; hoặc tìm trong vườn nhà hay đến những rẫy ruộng đào xới nhặt mót từng củ
khoai chuối, khoai mì, khoai lang, sắn nước hoặc củ chuối cây đã chặt buồng, băm
nhỏ nấu ghé với gạo mà ăn lót bụng qua ngày.
Người dân quê mộc mạc, giản dị,
nuôi dưỡng đàn con khôn lớn và mong chúng nối nghiệp cha ông, chăm lo vun trồng
canh tác ruộng vườn, giữ gìn tiền đồ và mồ mả, hương khói tổ tiên ông bà, cùng
nhau bảo vệ làng xóm yên vui thanh bình, cho cụ già em bé góp tiếng nói cười
tạo niềm hoan lạc nơi nơi.
Quê tôi bây giờ có khác, đổi thay nhiều
lắm. Sau mấy mươi năm đất nước không còn chiến tranh, không còn hỏa châu rực
sáng đêm đen, không còn vang tiếng nổ của đạn bom vọng về từ rừng sâu, nhưng
đồng bào tôi vẫn còn chịu đựng những tủi nhục, những cay đắng quằn quại khổ đau,
căm hờn lặng lẽ oán than; chỉ có hồn thiêng sông núi mới thấu hiểu, mới thương xót
được.
Quê tôi, Chóp Chài vẫn sừng sững
ngạo nghễ nhìn thành phố chuyển mình, làm chứng nhân muôn đời của bao thời hưng
phế, bao lần vật đổi sao dời. Ngậm ngùi với bao nhiêu cuộc từ ly,
khóc cho
những người đi, hận cho những kẻ đến, quặn đau trong nỗi đau của người bản xứ
bị chèn ép, bị ngược đãi, bị đẩy lùi vào những lối hẹp không thể vẫy vùng, vào
những ngõ cụt không lối ra.
Quê tôi, thành phố, địa phương tôi
bây giờ không còn công đạo như ngày trước nữa mà chỉ có những bàn tay bất nhân,
những đầu óc vô cảm không chung một văn minh tập quán, chỉ có tham nhũng, dã
man và quan liêu, để dân gian có những câu hát ca dao truyền khẩu về “đầy tớ
của nhân dân” trong một xã hội chủ nghĩa đổi mới:
“….Đầy tớ thì ở nhà lầu,
“….Đầy tớ thì ở nhà lầu,
Cha con ông chủ vải dầu che mưa.
Đầy tớ ăn nhậu say sưa,
Cha con ông chủ muối dưa đỡ lòng ...” (Ca dao Phú Yên)
Quê tôi, Tháp Nhạn đời đời chơ vơ cùng đất trời, âm thầm khóc thương cho một Chiêm quốc diệt vong, từng một thời vàng son oanh liệt. Tháp sừng sững rêu phong, bị xoi mòn, lở lói
theo tiến trình tự nhiên của thời gian. Và tháp đã được “trùng tu”
vá víu nham nhở trơ trẽn, bôi lem luốc vết tích mỹ thuật, mất đi nét tự nhiên
quý báu của di tích lịch sử cổ Chàm. Làm biến đổi cả thể chất lẫn tinh
thần của cổ tháp.
Sông Ba hiền hòa chảy xuôi dòng
trong mùa nắng ấm, đến mùa mưa bão lũ lụt,
dòng sông và các phụ lưu không còn là hình ảnh êm đềm mà là những dòng cuồng lưu đục
ngầu lấp xấp lườn cầu cuồn cuộn chảy, như cuốn đùa
tất cả những khổ đau của kiếp người, những tai ương của muôn loài ra biển khơi,
cho thiên hạ còn được thái hòa, yên vui, cho đất đai trù mật cây cỏ xanh tươi,
an lành sinh sôi nẩy nở đơm hoa kết trái.
Hai mươi mốt nhịp cầu sắt Đà Rằng
nối hai bờ nam bắc, bây giờ bị quét lên lớp sơn lam nhạt phủ
kín màu đen phong sương, màu quen
thuộc từ thuở mới được tạo dựng nên xa xưa ấy đã bị đẩy biến vào dĩ vãng. Chỉ
còn lại âm thanh đặc biệt cứ mỗi khi đoàn xe lửa chạy qua cầu tạo vang tiếng
xoan soát, sình sịch đều đặn hòa với tiếng gió đùa
quen thuộc khó quên. Song song với cầu sắt, một cầu
xi măng do Công Binh QLVNCH xây dựng vẫn còn nguyên vẹn, tuy có những rạn trầy
vì thời gian, cầu vẫn đón người qua lại mỗi ngày. Tại đầu cầu phía bắc bây giờ
có một chòi gác với cổng chắn ngang đường để bắt buộc các tài xế phải dừng xe
nộp tiền mãi lộ mỗi lần chạy xuôi Nam hay ngược Bắc ngang qua đó.
Về phía biển, mỗi
chiều hằng trăm người đủ mọi thành phần, mọi lứa tuổi xuống bãi để bơi lội,
hóng mát hay vui đùa, tình tự; nhìn thuyền câu nhấp nhô le lói ánh đèn hay chờ
ngắm trăng lên
từ chân trời viễn khơi. Khi đông về gió mưa phũ phàng, ngoài những
tụ điểm nơi quán nước tiệm ăn núp trong rừng dương, bãi biển đìu hiu vắng
người. Gần đó cửa Đà Rằng, nước phù sa từ sông đổ ra làm thành vùng biển nước
đục lờ mênh mông, những con sóng cao bạc đầu tiếp nối xô tràn sâu lên bãi rồi
rút ra xa, trơ lại bãi cát ướt sẫm phẳng lì, những con hải âu lạc lõng bay sà
xuống chớp nhanh con mồi lóc phóc tha lên đậu trên cồn cát cao mắt láo liên,
chóc mỏ hướng trời, trời cao mây phủ, nghiêng đầu nhìn biển, biển mênh mông,
cúi đầu nhìn đất, đất mang mang, càn khôn một khối vô biên, thân cò là hạt bụi;
mặc cho những cơn gió xiết thổi dựng ngược lớp lông vũ, có khi chạy xuôi thoăn
thoắt như bị gió xô, chợt vụt bay rồi lại đáp như còn chút gì lưu luyến. Gió
mùa đông
bắc rít rì rào xuyên rừng dương xanh muôn thuở dọc theo bãi, lâu lâu mới thấy
một vài chiếc xe đạp xèn xẹc chạy hối hả hay một chiếc xe vận tải nặng chở đầy
cát rù rù chạy qua, bỏ sự hiu quạnh lại phía sau. Những công thự ba bốn tầng
sừng sững, mái ngói và tường vôi sậm màu cũ kỹ sũng ướt không che dấu được vết
hoen rỉ chung quanh, cửa đóng im ỉm, vài chiếc xe hơi cũ đậu bên ngoài vắng
bóng người lai vãng. Lên phía giồng cao hơn, hàng trăm năm trước là động cát
dài, hai con lộ lớn song song chạy về hướng rừng dương Long thủy, xuyên qua khu
dân cư lè tè và năm ba dinh thự hành chánh đồ sộ thênh thang nhưng quạnh vắng, ngoài tiếng sóng vỗ rì rào ầm ĩ dưới bãi.
Thành phố tôi, dù có thay danh đổi
tánh, quốc lộ Một xuyên Việt ngang qua, đêm ngày dầu dãi dưới nắng hạ mưa đông
làm thân cho xe cộ hững hờ ngược bắc xuôi nam. Những con phố vẫn là đường Phủ
cũ, số Một, số Hai, số Ba, số Sáu, Ngã Năm, chợ Tuy Hòa, rạp Nhạn Tháp, Diên
Hồng…của ngày xưa và bây giờ vẫn chỗ đó. Trên bất cứ con đường nào, xích lô, ba
gác, xe ngựa, xe bò, xe đạp, xe máy nhiều hơn người đi bộ; chạy xe như chạy
trên đại lộ một chiều. Tại những ngã tư cũng có
đèn xanh, đèn vàng, đèn đỏ chớp tắt, hình
như chỉ để làm màu mè trang hoàng thành phố, mà người lái xe chẳng cần tôn
trọng màu đèn ấy để làm gì, không ai nhường ai, mà cũng chẳng có ai được quyền
ưu tiên trên lộ ngoài cán bộ công an cảnh sát, hễ có chỗ trống là lướt qua. Hai
bên đường là những dãy phố lầu san sát, không còn lô đất nào trống, trông như
sầm uất, nhưng có nhiều căn ngày đêm cửa sắt đóng im lìm. Thương mại chỉ lộ vẻ
nhộn nhịp ở trong chợ Tuy hòa, nơi đây mới thấy có hàng hóa bày la liệt, vải
vóc áo quần, vàng bạc nữ trang và thực phẩm rau trái, cá mắm. Người bưng kẻ
gánh, người khiêng kẻ đẩy, kẻ bán người mua ra vào tấp nập.
Quán cóc vỉa hè, tiệm ăn, tiệm cà
phê, tiệm hát KaraOk, trái cây giải khát, bia ôm, võng ôm, hớt tóc ôm, tắm hơi,
đấm bóp nhiều nhan nhản và đông người la cà, đổ tiền để ôm, để được sũng ái, để
tiêu những xấp tiền chùa từ những bao thơ, tiền bôi trơn, tiền của tham nhũng,
tiền từ trời rơi xuống, tiền lời của cưỡng chế đất đai của dân bán lại cho đại
gia công ty nước ngoài, tiền hoa hồng dịch vu; tiền của cán bộ thuế vụ đến tận
nhà dân thu thuế rồi ăn chia tiền thuế thu được với nhà nước; tiền mười cây,
hai mươi cây của “thủ trưởng” khi thu nhận một “thành viên” mới; tiền hai mươi
ba mươi phần trăm hoa hồng cho trúng thầu xây dựng hay chia sẻ “mặt bằng” của
“nhà nước;” dự án càng lớn, lại quả càng nhiều. Chỉ là một thành phố nhỏ, nhỏ
đến nỗi chuyến xe lửa chỉ ngừng lại ga để đón khách không quá ba phút đồng hồ,
vậy mà, công thự của các cơ quan nhà nước đều ba bốn tầng đồ sộ và thênh thang
“hoành tráng,” mặc dù mỗi cơ quan chỉ có năm mười “thành viên” làm việc trong
đó! Bưu điện thành phố lớn hơn bưu điện trung ương Sài gòn; kho bạc “nhà nước”
tỉnh vĩ đại hơn Ngân hàng Quốc gia Việt Nam tại bến Chương Dương Sài Gòn ngày
trước! Để làm gì khi dân mình còn cơ hàn?
Đường số 2 Trần Hưng Đạo, đại lộ
huyết mạch của thành phố, là giao điểm các lộ chính từ các xã huyện vùng xa về
thị xã, phố xá rộng rãi, kẻ qua người lại náo nhiệt hơn, công nhân viên nhà
nước, quân đội, công an, thuế quan, công nhân lao động, học sinh, buôn gánh bán
bưng tấp nập chen lấn đúc lúc bình minh và chiều tối.
Những kẻ hoạn nạn thất thời, những
người hẩm hiu nghèo khổ nhưng sống hạnh phúc trong những căn nhà nhỏ luồn sâu
vào những con hẻm chật hẹp. Hiếm khi gặp gỡ hàn huyên tâm tình với tách trà
điếu thuốc, nhắc lại chuyện xưa, khơi lại buồn vui dĩ vãng, tìm lại những nụ
cười dù có héo hon, muộn màng nuối tiếc những cơ hội đã đánh mất nhưng còn có
chút ấm lòng.
Giáo dục cấp trung học
quê tôi, ngoài trường Trung học đệ nhất cấp Nguyễn Huệ được thành lập từ niên
khóa 1955-1956 (cũng là lớp đệ tứ đầu tiên cho học sinh bản xứ gồm cựu học trò
lớp 7 của trường Lương Văn Chánh thời kháng chiến Việt Minh và một số học sinh
Bắc Việt di cư “9 nút”) trên đường số Sáu. Từ niên khóa 1956-1957, thầy Vũ Trí
Phú được bổ nhiệm đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng thay thế thầy Đinh Thành Bài.
Liên tiếp
Hiệu trưởng với các thầy Nguyễn Đăng Ngọc, Nguyễn Đức Giang, Lê Ngọc Giáng và
cuối cùng thầy Tôn Thất Quế thì “trời sập.”
Năm 1961,Trường
Nguyễn Huệ mới hai tầng lầu khang trang và tiện nghi được xây xong trên đường Hoàng Diệu và từ niên khóa 1960-1961,
Trung học Nguyễn Huệ bắt đầu mở và thâu nhận học sinh vào trung học đệ
nhị cấp (từ đệ tam đến đệ nhất) đầu tiên tại tỉnh nhà. Trước đó, sau khi tốt
nghiệp trung học đệ nhất cấp, học sinh phải vào Nha Trang theo học đệ nhị cấp
tại trường Võ Tánh hoặc ra Qui Nhơn theo học trường Cường Để, do vậy một số
đông học sinh dù rất thông minh, hiếu học, nhưng không đủ khả năng chi phí đi
học ngoài tỉnh xa nhà, đành phải bỏ học, nhất là học trò vùng thôn quê. Không
nối được văn nghiệp, thì “trở về làng cũ học cày cho xong!” (Ca dao)
theo nông nghiệp, vốn là nghiệp dĩ từ tổ tiên! Hoc sinh theo học bậc trung học
ngày một tăng cao, niên khóa 1974-1975 sĩ số học sinh lên đến gần năm ngàn.
Nhìn lại trường xưa, lòng bồi hồi
nhớ thời dĩ vãng, ấp ủ chút tình học trò cùng những mơ ước hồn nhiên thơ dại. Những
cây phượng nay đã cao và rợp bóng, từng trổ đầy hoa tươi thắm mỗi khi hè về.
Những lớp học vẫn rộng rãi và ngân nắp, nơi đã có hàng ngàn học sinh từng miệt
mài lắng nghe và thu nhận lời giảng của thầy cô, nơi đó họ đã tranh đua từng
điểm để sửa soạn cho mình bước tương lai góp mặt với đời, với núi sông.
Suốt mấy mươi năm quê hương oằn
mình trong chiến tranh, đã có biết bao nhiêu hoang tàn đổ nát, biết bao oán
thương nghiệt ngã của mất mát và chia ly, nhưng không cản ngăn bước tiến trên
đường văn hóa của tuổi trẻ ngày trước, họ không ngừng ở tiểu học, đã chen chân
vào không những chỉ có trường Trung Học Nguyễn Huệ mà còn các trường khác nữa
Đặng Đức Tuấn, Bồ Đề, Văn Minh, Tân Dân … và tiếp tục lên cao đẳng, đại học,
nhiều người còn muốn đốt bớt giai đoạn, “học nhảy” để bước nhanh vào cửa tương
lai đang rộng mở, vì họ thấy được khung trời mênh mông của thế giới văn
minh tiến bộ trước mặt. Họ lập được công
danh, chung sức viết nên trang sử oai hùng bằng chính
khả năng, lòng dũng cảm và óc thông minh của họ. Và, ngày nay cũng tại quê
hương tôi, sau gần nửa thế kỷ không còn chiến tranh, tuổi trẻ cũng không chùn
bước, những thập niên đầu dù gặp khó khăn vì bị kỳ thị, bị hành hạ bỡi lý lịch
đỏ vàng, tuổi trẻ vẫn tìm mọi cách để học hành, để tiến bộ, nhiều người đã qua
hết bậc trung học, nhưng một số đông khác phải bỏ cuộc vì hoàn cảnh nghèo khó
và không chịu nổi sự ngược đãi. Ngày nay, có khác đi đôi chút, nhiều
người tốt nghiệp cao đẳng, đại học, nhưng hầu hết không được trọng dụng. Không
có tiền của hay gốc gác “giây mơ rể má với các cấp lãnh đạo” thì không thể có việc
làm. Tiến sĩ, giáo sư đi kèm trẻ tại tư gia, kỹ sư đi kéo dây điện, kiến trúc
sư vá vỏ xe lề đường, cử nhân khoa học pha cà phê quán cóc… để kiếm cơm. Uổng
một đời tuổi trẻ miệt mài đèn sách, mong lấy được mảnh bằng để có cơ may tạo
nên sự nghiệp thì bây giờ thành quả công lao mai một, mang nỗi ưu tư vì tuổi
xuân đang sớm qua mau mà công danh chưa đạt. Thế mới hay : “Xưa nay xuất, xử
thường hai lối “ (Nguyễn Công Trứ). Trước mặt họ là lai mờ mịt, họ thất vọng, bất mãn. Xã hội đã
xô đẩy nếu không muốn nói đã và đang “đào tạo” họ trở nên yếm thế, vô cảm và
thụ động. Họ bất cần đời, tìm vui trong trụy lạc, trong ma túy và men rượu, say
sưa để tự hất hủi, tự xỉ vả mình. Cái nghịch lý trớ trêu là có vốn trí thức mà
không quyền lực hoặc tiền bạc thì bị đẩy ra ngoài lề của xã hội. Khoanh tay
nhìn dòng đời trôi trên “cái” xã hội đó mà không lôi cuốn mình theo được.
Chất xám của quốc gia đã và đang chảy ra ngoại quốc! Việt Nam không phải là môi trường để thi thố và phát triễn tài năng, ngoại trừ một số rất nhỏ du hoc sinh được cha mẹ là những quyền tộc thuộc “nhóm lợi ích” đã “lót ổ” sẵn chờ họ mang bằng cấp ngoại hóa về, hấu hết sinh viên VN đi du học, sau khi tốt nghiệp, bằng cấp và khả năng của họ được quốc gia dạy dỗ họ trọng dụng, họ nhận việc làm và ở lại phục vụ xây dựng nước ngoài. Cũng như những người thành tài ở trong nước, họ đem khả năng trí tuệ quí hiếm của mình xây dựng cho ngoại quốc hay công ty nước ngoài tại chính trên đất nước mình. “nhà nước” không ưu đãi họ, không cho họ cơ hội hiến dâng xây dựng quốc gia dân tộc mình phát triển theo kịp văn minh và tiến bộ của thế giới. Chả lẽ VN cứ đi thụt lùi như thế này mãi sao ?
Chất xám của quốc gia đã và đang chảy ra ngoại quốc! Việt Nam không phải là môi trường để thi thố và phát triễn tài năng, ngoại trừ một số rất nhỏ du hoc sinh được cha mẹ là những quyền tộc thuộc “nhóm lợi ích” đã “lót ổ” sẵn chờ họ mang bằng cấp ngoại hóa về, hấu hết sinh viên VN đi du học, sau khi tốt nghiệp, bằng cấp và khả năng của họ được quốc gia dạy dỗ họ trọng dụng, họ nhận việc làm và ở lại phục vụ xây dựng nước ngoài. Cũng như những người thành tài ở trong nước, họ đem khả năng trí tuệ quí hiếm của mình xây dựng cho ngoại quốc hay công ty nước ngoài tại chính trên đất nước mình. “nhà nước” không ưu đãi họ, không cho họ cơ hội hiến dâng xây dựng quốc gia dân tộc mình phát triển theo kịp văn minh và tiến bộ của thế giới. Chả lẽ VN cứ đi thụt lùi như thế này mãi sao ?
Trải qua bao nhiêu thời thịnh suy
đổi thay quyền lực, bao nhiêu cuộc can qua, quê tôi vẫn là nơi chôn nhau cắt rún có từ đường và mồ mả tổ
tiên, nơi đó tôi lớn lên bằng dòng sữa mẹ trong tình ngọt bùi của gia đình, bà
con dòng họ cùng láng giềng. Nơi có những lũy tre xanh bao quanh xóm làng, có gốc
đa mái đình. Nơi có phố phường chợ búa, trường học giáo dục văn minh, nhân bản
và đạo đức làm người. Thiên nhiên rừng núi, sông suối, ruộng đồng phì nhiêu lúa
trỗ và hoa trái thơm ngon, trời thanh mây thắm êm trôi đem gió trăng mưa nắng
về làm ấm tâm tình đồng bào tôi, họ đã phải trải qua những hoàn cảnh éo le
nghiệt ngã, ngoài thiên tai còn có nhân tai mà xã hội bất công khắc khe ngược
đãi chà đạp và áp bức lên cuộc đời họ những mất mát to lớn, đắng cay chất ngất,
tủi nhục ê chề. Với lòng vị tha nhân ái, họ không bao giờ tiêu cực hay xao lãng
trọng trách xây dựng gia đình, xã hội. Qua bao thế hệ, vẫn mỗi đời người nuôi
một ước mơ thanh bình hạnh phúc mang đậm tình người trên quê hương
ptmai
[1] Nước lũ đầu mùa
[2] Xe do bò hay
trâu kéo
[3] Chỗ cọc tre bện kín chận
ngang con mương, chừa một khoảng trống ở giữa cho nước chảy qua, cá tôm theo
giòng nước chạy lọt vào rọ có cái toi nhưng không thoát ra đượ..
[4] Chiếc lưới
rộng căn bỡi 2 cây sào tre dài và cung
xuống cột chéo chữ thập, điều khiển hạ xuống nước và nâng lên bỡi cây tre hoặc
cây gỗ dài chắc chắn, để bắt những cá
tôm cua lọt vào bên trong lưới.
[5] giã nát cua
ghẹ
[6] Cầu đúc bằng xi-măng cốt
sắt, như cái máng rộng dẫn nước bắt ngang qua sông Đồng Bò và một cầù bắt qua
một con suối lớn ở phía bắc Phú sen của hai con mương dẫn thủy từ đập Đồng cam
về tưới đồng Tuy hòa, đồng Phú Lâm và Hòa Thịnh.
[7] Cày lần thứ
nhất khi bắt đầu làm mùa
[8] Cầu xin thần
linh
[9] Giống như củ khoai mài
nhưng mọc ở trên núi
No comments:
Post a Comment