Lê Nguyễn Hằng
Sáng nay, trời vẫn mưa tầm tã,
gió thổi lá rụng đầy sân, làm nghiêng ngả cây cối sau vườn, nhất là những lẵng
hoa treo trên patio. Có vài chậu cây bị đổ nhào, đất văng tung tóe, tôi
nhặt những cành hoa bị dập nát mà lòng xót xa. Suốt đêm qua, gió bão ầm ầm, mưa
tuôn xối xả. Đã ở thành phố San Jose này ba mươi sáu năm qua, tôi có cảm tưởng
như đây là trận mưa bão lớn nhất từ trước đến giờ.
Vợ chồng Tâm, bạn rất thân của
tôi sáng sớm mai sẽ lái xe từ Santa Ana lên chơi. Nhìn trời âm u, gió mưa ào ạt,tôi
lo ngại quá, sẽ gọi điện thoại báo cho Tâm biết tình hình thời tiết trên này để
bạn tôi định liệu, tôi cũng sẽ nhắc Tâm lái xe cẩn thận và nhớ đem theo một ít
thức ăn trên xe phòng hờ bị kẹt đâu đó vài tiếng. Tiên đoán thời tiết khuyên rằng
khi gặp những nơi mưa quá lớn và đường ngập nước thì nên tấp vào chờ. Vùng Los
Angeles cũng bị bão lớn và đất truồi. Nhất là qua đèo 52 mà có mưa to gió lớn
thì thật là nguy hiểm. Thấy thời tiết quá xấu mà chỉ là đi chơi chứ không có gì
bắt buộc nên vợ chồng Tâm đã hoãn chuyến đi.
Nghe vậy tôi hơi buồn vì đã chuẩn
bị từ mấy hôm nay mà bây giờ lại mất dịp đón tiếp bạn hiền. Tuần nào Tâm và tôi
cũng điện thoại nói chuyện đôi ba lần, thế mà tôi vẫn thương và mong gặp bạn vì
lúc nào cũng có nhiều điều để kể lể, nỉ non. Tôi đã định nấu vài món Bắc thật
ngon đãi bạn. Riêng Qúy, chồng của Tâm thì quá dễ, chỉ cần có bia
Heineken và bánh mì tây ngon dòn ăn với bơ là xong ngay.
Tâm và tôi là bạn thân thiết từ
năm 1954, khi chúng tôi mới di cư từ miền Bắc vào Tuy Hòa, một thành phố nhỏ bé
hiền hòa miền Trung. Ba của Tâm là thầy giáo, còn bố tôi làm cho Ty Ngân Khố,
hai gia đình nguyên là công chức từ Hà Nội được chính phủ tái bổ nhiệm về tỉnh
Phú Yên. Mỗi gia đình chúng tôi được cấp một căn nhà tranh vách lá ở trong khu
“Bắc Kỳ Di Cư.” Thỉnh thoảng, nửa đêm đang cơn ngủ mê bị đánh thức vì những tiếng
la thất thanh cháy nhà. Một sơ ý nho nhỏ cũng đủ thiêu rụi cả dãy, có lần
nguyên cả khu chìm trong biển lửa. Do đó, đợt thứ hai được nâng cấp lên nhà
tranh vách đất, đỡ bị cháy hơn.
Ở cùng một khu, nhà sát vách
nhau, đám con gái chúng tôi vừa ẵm em vừa nhảy dây, chơi chuyền, ô quan, rải
ranh, u quạ và cùng tắm chung ngoài giếng công cộng lúc trời tối. Buổi trưa, rủ
nhau qua bãi tha ma bên kia đường hái trái dâu, dú dẻ, chim chim, dãi nắng suốt
mùa hè. Buổi tối cơm nước dọn dẹp xong, chúng tôi đi theo những đốm lửa
chớp sáng lung linh để bắt đom đóm, bỏ chúng vào trong một cái ly thủy tinh,
ánh sáng nhấp nháy tuyệt đẹp. Những trò chơi tiêu khiển rất đơn sơ và nghèo nàn
không tốn tiền, nhưng lại vui một cách hồn nhiên.
Thời gian thần
tiên đó chỉ kéo dài được vài tháng thì Thầy Cẩn, một thầy giáo cũng “Bắc Kỳ di
cư” nhớ nghề cũ mà không đành lòng nhìn đám con nít lêu lổng, thầy bèn mở một
“lớp học bỏ túi” ngay trong cái miếu bỏ hoang dưới một cây đa cổ thụ, để dạy dỗ
chúng tôi. Bọn tôi gọi đó là “lớp thập cẩm” vì mọi người đều học chung một lớp
bất kể học lực và tuổi tác.
Lớp học thật đơn sơ, bàn ghế là mấy
miếng gỗ mục kê trên vài cục gạch bể, trông rất thảm hại vì lúc nào cũng lung
lay, chỉ chờ ai đụng nhẹ vào là đổ sập xuống ăn vạ. Bút mực là ngòi viết buộc
dây cao su vào cây đũa, chấm vào nước quả mùng tơi màu tím, thế mà lũ học sinh
vô trật tự đó cũng chịu khó tới “lớp miếu” cho đến khi thầy Cẩn về Bộ Giáo Dục,
xin được ngân khoản, xây dựng mấy gian nhà tranh làm “Trường Nam Tiểu Học.” Vài
năm sau, Trường Nữ Tiểu Học ra đời, nhưng Tâm và tôi vẫn tiếp tục sát cánh với
đám bạn học sinh con trai học ở Trường Nam vì Trường Nữ chưa có lớp cao.
Vài năm sau bố mất, Tâm theo mẹ dọn
nhà về đường số 6, chỉ cách nhà tôi một bãi tha ma. Buổi chiều sau khi tan học,
lấy cớ là phải học chung để làm bài, chúng tôi cũng có học một tí chiếu lệ,
nhưng phần lớn là thủ thỉ chuyện trò với nhau, sau đó chúng tôi đưa nhau về.
Đưa qua đưa lại mãi rồi cuối cùng cũng phải có một người đi về nhà một mình. Vì
thương bạn, phần lớn tôi chịu hy sinh, ba chân bốn cẳng chạy băng qua bãi tha
ma, không dám nhìn lại đằng sau vì tôi rất sợ ma. Dù vậy chúng tôi cũng không
“chừa” gặp nhau. Buổi trưa, trước khi đi học, tôi và Tâm thường hay vào
vườn nhà người ta “mua” trái cây, thế là Tâm thoăn thoắt trèo lên cây tha hồ
hái quăng xuống cho tôi nhặt, thế nào cũng có vài quả rơi “nhầm” vào túi áo
chúng tôi, chủ nhà chắc chắn biết đấy nhưng cũng lờ đi coi như “cho” đám nhất
quỷ nhì ma này.
Khi đi học về, thỉnh thoảng Tâm
ghé nhà tôi, nhiều khi hai đứa đói quá lục cơm nguội ăn với nước dưa muối, thế
thôi! Vậy mà chúng tôi xì xụp vừa nhai vừa húp một cách ngon lành. Bây giờ
có ăn cao lương mỹ vị cũng không thấy ngon bằng cơm dưa muối những ngày nghèo
khổ ấy.
Những tháng hè rảnh rỗi, Tâm và
tôi thuờng theo đám bạn đến cầu Ông Chừ chèo ghe trên sông Chùa sang Ngọc Lãng
đi bẻ mía rồi hái trộm bắp. Thỉnh thoảng đến nhà người bạn có khu vườn rộng,
sau khi bắt bướm hái hoa chán chê thì hè nhau hì hục xay bột đổ bánh xèo, cuốn
vài cọng xà lách, chấm với mắm cái, ôi không bút mực nào tả hết được cái ngon của
những món ăn thanh bạch, đơn sơ của thời thơ dại!
Lớn lên, hai đứa tôi cùng làm cho
Đài Phát Thanh Tuy Hòa. Mỗi ngày đi làm chung bằng xe xích lô cho đỡ tốn.
Thỉnh thoảng làm sang, ghé ăn phở ở tiệm Bình Minh. Nhưng thường thì không có đủ
tiền để mua cho mỗi đứa một bát phở nên chỉ mua một bát và mượn một bát không để
chia tô phở làm hai, chúng tôi trộn vào thật nhiều giá và rau xà lách để ăn cho
đủ no. Đến khi tôi lấy chồng ở Tuy Hòa, Tâm là người bạn học cùng lớp duy
nhất đến dự đám cưới, các bạn khác phần lớn đã tản mát bốn phương trời.
Cuối cùng Tâm cũng bỏ tôi mà đi,
mãi tận Đà Nẵng, tôi có thăm Tâm một lần rồi hai đứa mất liên lạc vì lúc đó chiến
tranh đang đến hồi khốc liệt, di chuyển từ tỉnh nọ đến tỉnh kia rất khó khăn và
tốn kém. Hơn nữa chúng tôi đều có con nhỏ phải chăm sóc. Lúc Đà Nẵng mất, tôi rất
lo cho Tâm nhưng cũng đành chịu vì chẳng làm gì được, chỉ biết cầu mong cho gia
đình bạn tôi được bình an.
Đột nhiên như một giấc mơ thần
thoại, tôi gặp lại Tâm trong trại tỵ nạn ở Đảo Guam tháng 5 năm 1975. Trong lúc
đang hoang mang, lo sợ, buồn tủi vì phải bỏ nước ra đi và không hiểu tương lai
sẽ khó khăn như thế nào, chúng tôi chỉ biết ôm nhau khóc sướt mướt kể lể chuyện
ngày xưa.
Sau khi rời trại tỵ nạn, dọn về ở
Virginia ba năm, gia đình tôi cuối cùng đã chọn vùng nắng ấm, thung lũng hoa
vàng San Jose ở California làm quê hương thứ hai. Tuy không liên lạc được với
Tâm một thời gian dài, nhưng tôi cũng không lo vì biết chắc người bạn thân yêu
của tôi và gia đình đã đến được bến bờ tự do như tôi.
Một ngày đẹp trời năm 1978, được
tin gia đình Tâm đã bỏ xứ lạnh Wisconsin dọn về Nam California, vợ chồng con
cái tôi tức tốc xuống đón mừng gia đình Tâm. Từ đó đến nay, hai đứa tôi như
chim liền cánh, cây liền cành, lúc nào cũng có nhau mặc dù đứa ở miền bắc, đứa
dưới phía nam, xa nhau cả gần 500 dặm. Chỉ mỗi việc chạy lên chạy xuống dự đám
cưới sáu đứa con của Tâm và ba đứa con của tôi cũng làm chúng tôi bở hơi tai.
Mỗi lần tôi than đau vai vì phải
dùng computer nhiều quá là Tâm lại gửi theo Xe Đò Hoàng lên cho tôi, khi thuốc
uống, lúc thuốc xoa. Chỉ sự lo lắng và chăm sóc của nguời bạn chí tình này cũng
đủ làm cái vai của tôi giảm đau một nửa rồi.
Ngày Valentine năm 2004, trên San
Jose, tôi đến chùa xin được quy y và thầy đã cho tôi Pháp danh “Diệu Tâm.” Như
một định mệnh, tình cờ trong Pháp danh của tôi có tên của Tâm. Chiều hôm ấy, dưới
Santa Ana, Tâm cũng xin quy y và nói cho thầy biết về Pháp danh của tôi nên thầy
đã đặt tên cho Tâm là “Diệu Hằng.” Thế là cho đến chết, chúng tôi lúc nào cũng
mang tên của nhau.
Tâm làm thơ rất hay. Một nhạc
sĩ học cùng trường và cũng ở trong khu di cư với hai đứa tôi, đã phổ nhạc mấy
bài thơ của Tâm. Vì tình bạn cao quý “thương nhau trái ấu cũng tròn,” tôi bèn lấy
hết can đảm hát những bài thơ của Tâm. Nhờ thơ hay và nhạc cũng rất hay nên mới
che lấp được cái giọng hát “không hay” của tôi. Nhưng điều đáng quý là ba
đứa tôi, thân nhau từ thuở tiểu học, đã dám cả gan làm thơ, đặt nhạc và hát cho
nhau nghe.
Quý, chồng của Tâm là một cựu sĩ
quan trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Anh có bề ngoài rất đàn ông, lúc nào ăn
mặc cũng thanh lịch, chải chuốt, lại thêm hát hay và nhẩy đầm thật lả lướt.
Tưởng là một bậc “ăn chơi,” nhưng Quý lại rất khéo tay và chăm lo việc nhà. Ai
đến nhà nhìn vào cái vườn thượng uyển của đôi uyên ương này cũng phải trầm trồ,
từ cái patio thật vương giả, đến những giàn hoa tươi thắm và những cây trái
trĩu chịt, tất cả đều do hai vợ chồng tự làm. Tâm thường chia cho tôi từng cành
hoa, cọng cỏ đẹp và hiếm quý để tôi đem về trồng. Người nào đến khen vườn
của tôi, tôi cũng khoe ngay: “cây hoa này, chậu hoa kia, vòm cỏ nọ, đều là của
Tâm, bạn tôi cho đấy.”
Các con của tôi rất ngưỡng mộ vợ
chồng Tâm, chúng nó luôn bảo rằng: “Cô Tâm đã đẹp mà chú Quý lại ‘cool’, hai
người thật xứng đôi.”
Tâm và tôi có rất nhiều bộ quần
áo và áo dài giống nhau. Hôm đi dự đại hội trường cũ, có lúc thấy tôi một
mình, một người bạn hỏi đùa: “nửa kia đâu rồi mà nửa này đứng đây ngơ ngác thế?”
Ngày Tâm về hưu, tôi đã mua tặng
bạn tôi cái đàn keyboard, trước là để giải trí, sau là bắt trí óc làm việc cho nó
khỏi làm biếng mà quên trước quên sau.
Khi biết Tâm bị đau thần kinh tọa,
tôi rất thương và lo cho bạn nên vội vàng gửi xuống cho Tâm chai thuốc bổ và những
thứ thuốc chống đau nhức cả uống lẫn thoa.Tôi rất mừng được biết bạn tôi đã khỏi
bệnh.
Tôi chợt nhớ ra một điều là trong
suốt sáu mươi năm làm bạn, qua bao nhiêu tang thương dâu bể xảy ra trong đời,
Tâm và tôi chưa hề một lần giận hờn hay nặng lời với nhau. Tôi không bao giờ
ganh tị với nhan sắc và cái duyên trời cho Tâm, còn Tâm lúc nào cũng vui mừng với
những thành quả tôi gặt hái được trên đường sự nghiệp. Chúng tôi luôn luôn bù đắp
cho nhau.
Bây giờ hai đứa chúng tôi đã về
hưu, không còn những buổi sáng bật dậy lúc còn ngái ngủ, sửa soạn vội vàng, chuẩn
bị thức ăn cho các con đem đi học rồi phóng xe trên xa lộ để kịp giờ đến sở.
Làm việc cật lực suốt ngày dài đằng đẵng, tan sở, hấp tấp đến trường đón con. Về
đến nhà, bỏ chùm chìa khóa xe vào ví để trên kệ, chạy xuống bếp nấu cho chồng
con bữa cơm chiều có cơm dẻo, canh ngọt.
Dù thỉnh thoảng đã có những đau
nhức hay đầu óc quên ngược quên xuôi của tuổi “về già,” chúng tôi vẫn có những
phút rất “trẻ thơ,” ngồi nhắc lại chuyện ngày xửa ngày xưa, thuở còn đi học, đứa
nào có “bồ” trước và nhiều hơn, khi tôi đếm sót, Tâm còn nhắc tên anh chàng đó
nữa. Lúc ấy ở tuổi học trò, chỉ là những lời bóng gió trong thiệp chúc Xuân hay
lưu bút lúc nghỉ hè, bạo lắm cũng chỉ dám kẹp thư với vài giòng thổ lộ nhẹ
nhàng khi trả sách cho mình thôi, thế mà cũng đã làm trái tim non dại xao xuyến.
Bây giờ gặp lại nhau trong những lần đại hội của trường cũng chỉ nhìn nhau mỉm
cười rồi thôi.
Cách đây bốn tháng, Tâm cho tôi
biết ý định bán nhà đang ở, rồi mua một mobile home. Tôi hoàn toàn đồng ý và
nói rằng một số bạn của vợ chồng tôi ở trên này, toàn quyền cao chức trọng, tiền
bạc rủng rỉnh, cũng đã làm như thế vì bây giờ ai cũng trên 65 cả nên đã về hưu
và muốn thu vén cho gọn lại, nhà nhỏ đỡ phải dọn dẹp và còn có tiền để chia cho
các con cháu vì chết đi cũng chẳng mang theo.
Hôm tháng tám, khi tôi xuống dự Đại
Hội Việt Báo ở Santa Ana, Quý và Tâm đã dẫn vợ chồng tôi đến xem một cái mobile
home trước khi quyết định mua, chúng tôi đều thích. Hai tuần lễ sau, vợ chồng
Tâm đã dọn nhà. Ai cũng tiếc cái vườn cây vợ chồng Tâm đã bỏ biết bao công sức
và tiền bạc gây dựng, nhưng Tâm thản nhiên bảo tôi rằng: “tao đã ‘ngộ’ rồi, cái
gì dọn được thì mang theo và không tiếc nuối những gì phải bỏ lại.”
Bây giờ các con của Tâm đều đã lập
gia đình. Con gái lớn đã được dân cử vào một chức vụ trong chính quyền,
con gái nhỏ mở một trường dạy kèm trẻ học sinh tiểu học rất thành công.
Những cậu con trai cũng đâu vào đó cả. Người bạn chí thân này của tôi đến bây
giờ vẫn còn vừa đẹp vừa duyên dáng như thuở nào mặc dù đã có một bầy con và một
đàn cháu rất đông.
Tôi rất mừng là cuối cùng bạn tôi
đã hoàn thành ý nguyện, bây giờ không còn bận lòng đến những chuyện ngày xưa từng
quay cuồng, lo toan. Bạn tôi đã hoàn toàn hạnh phúc trong việc hưởng nhàn cùng
chồng con và đàn cháu.
Bạn thân quý của tôi ơi! Mấy hôm
nay đài truyền hình đã rộn rã chiếu lên những cây thông đèn sáng lấp lánh rực rỡ
với những bài hát đón mừng Noel, xinchúc bạn và gia đình một mùa Giáng Sinh an
bình. Nhớ giữ gìn sức khỏe để còn có sức vượt 500 dặm thăm nhau thường xuyên
nhá.
Giáng Sinh 2014
Lê Nguyễn Hằng
No comments:
Post a Comment